Alzheimer là một căn bệnh đặc trưng là sự thương tổn ở não khiến cho dòng ý tưởng, cảm xúc và trí nhớ của người bệnh ngày càng rối loạn, chậm dần và ngừng hẳn. Bệnh thường gặp ở người trên 60 tuổi, xuất hiện tản phát ở người dưới 50 tuổi và trong gia đình ở người dưới 60 tuổi. Đặc điểm là bao giờ bệnh nhân cũng bị mất trí nhớ tiến triển chậm còn các lĩnh vực nhận thức khác cũng bị suy giảm sau nhiều năm. Sau khi bị mất trí nhớ, bệnh nhân cũng có thể bị rối loạn ngôn ngữ, thị giác không gian và chức năng thực hiện.Điều trị bệnh alzheimer là một điều trị kiên trì và lâu dài ngoài điều trị bằng thuốc thì cần điều chỉnh chế độ sinh hoạt ăn uống thay đổi các thói quen xấu làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống ở giai đoạn trung gian và giai đoạn sau thường kết hợp điều trị cả đông và tây y.
Bệnh Alzheimer là một loại bệnh gây ra sự thoái hóa toàn bộ não bộ và không thể phục hồi. Các tế bào thần kinh ở võ não cùng với các cấu trúc xung quanh nó bị tổn thương dần dần làm giảm khả năng phối hợp vận động, rối loạn cảm giác cuối cùng gây ra tình trạng mất trí nhớ cho người bệnh.
Nếu 1 người bị bệnh Alzheimer thì gần 50% số người có quan hệ huyết thống cấp I của bệnh nhân cũng sẽ bị bệnh .Các gen nằm ở nhiễm sắc thể số 14, 21 và đặc biệt, gen apoE4 ở nhiễm sắc thể số 19 có liên quan đến Alzheimer . ApoE4 là một trong một số dạng, hoặc alen của gen apoE. Những dạng khác là apoE2, apoE3. Những người có 2 gen apoE4 có nguy cơ mắc AD cao gấp 8 lần so với người có 2 alpo E3.
Bệnh Alzheimer là do sự thoái hoá sớm các hệ thống não. Sự thoái hoá mang tính tiến triển và quá trình Alzheimer có thể được đánh dấu trên bản đồ não. Thông thường các vấn đề khởi đầu từ vỏ phía trong sau đó lan sang hồi cá ngựa và lan dần sang các vùng khác, cụ thể là lên vỏ não. Do các nơron vùng cá ngựa bị thoái hoá nên nó kéo theo sự suy giảm trí nhớ ngắn hạn và khả năng thực hiện những công việc hàng ngày. Khi bệnh lan truyền đến vỏ não, nó bắt đầu ảnh hưởng đến ngôn ngữ.
Một trong những chất dẫn truyền thần kinh có vai trò quan trọng trong Alzheimer chính là acetylcholine: ở người bệnh Alzheimer , acetylcholine giảm đến 90% . Acetylcholine tham gia vào quá trình trí nhớ và ảnh hưởng đến hoạt động của nơron của hồi cá ngựa và vỏ não, các chất dẫn truyền thần kinh khác cũng có thể tham gia vào quá trình này. ở một số người bệnh Alzheimer, nồng độ serotonin và noradrenalin thấp hơn bình thường, do vậy chúng cũng có thể góp phần vào các rối loạn giác quan và hành vi xâm kích. Các hormon này cũng có thể liên quan đến những rối loạn tâm lí khác trong những kỳ đầu của Alzheimer như trầm cảm và lo âu.
Nguy cơ mắc Alzheimer một phần là do các yếu tố môi trường mặc dù chưa xác định được chính xác vai trò của chúng trong nguyên nhân. Một trong những yếu tố nguy cơ khá rõ chính là vết thương não trong tiền sử.
Trong quá trình ăn uống, bổ sung dinh dưỡng không hợp lý, bổ sung thiếu vitamin nhómB.
Cuộc sống bế tắc, stresss khiến bệnh nhân trầm cảm, không gặp bác sỹ tâm lý chữa kịp thời bệnh trầm cảm.
Có thể chia làm 3 giai đoạn:
-Giai đoạn sớm bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng trầm cảm hoang tưởng bị hại, nhưng đôi khi cũng có ảo thị giác với các hình ảnh kỳ quái.
-Giai đoạn trung gian, người mắc bệnh thường gặp khó khăn khi nói vì quên những từ ngữ thông thường, thay đổi tính cách, quên những động tác sinh hoạt cá nhân, mất định hướng về thời gian và không gian.
-Giai đoạn nặng hơn, chứng quên rất trầm trọng bệnh nhân mất toàn bộ khả năng sinh hoạt thường ngày và phải sống lệ thuộc vào người thân do không thể tự ăn uống, vệ sinh cá nhân.
Các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Alzheimer bao gồm (DSM-IV, 1994);
- Khiếm khuyết trí nhớ (tiếp thu hoặc nhắc nhở).
-Có một hoặc nhiều hơn: Mất ngôn ngữ (aphasia) / mất sử dụng (động tác thực tế) (apraxia)/ mất nhận biết (agnosia)/ rối loạn chức năng thực hiện (lập kế hoạch, tổ chức, lập trình, trừu tượng hóa).
- Suy giảm nhận thức ở mức đủ nặng ảnh hưởng tới hoạt động xã hội hoặc nghiệp vụ và thể hiện có biến đổi so với trước.
- Diễn biến lâm sàng có khởi phát từng bước và suy thoái tiến triển.
- Không do mê sảng.
- Không giải thích được do hệ thần kinh trung ương, ví dụ tai biến mạch não, bệnh Parkinson.
Quên tên: lãng quên tên (tên bố, mẹ, vợ, con...) lặp đi, lặp lại nhiều lần trong ngày. Cuối cùng là quên tên của mình.
Hay ghi chép lặt vặt (tạo tiền đề để nhớ).
Tìm mọi cách để phủ nhận những sa sút trí nhớ của mình.
Gọi điện cho người thân nhiều lần (gọi xong lại quên, gọi lại).
Lẫn lộn các đồ vật, nhầm ngày, tháng, năm.
là triệu chứng đầu tiên và xuất hiện rất sớm, ngày càng nặng và không hồi phục. Bệnh nhân thường mất trí nhớ gần (quên những sự vật mới xảy ra). Dần dần họ quên ngày, tháng, quên tên vợ con của mình. Khi ra khỏi nhà thì quên đường về, quên rửa mặt, quên cài cúc áo, quên mặt vợ (hoặc chồng) của mình.
Biểu hiện sớm và khó tìm từ để biểu hiện ý tưởng. Họ khó phát âm, nói không trôi chảy sau đó mất ngôn ngữ, nói xong nhưng không hiểu mình vừa nói gì. Rối loạn phối hợp động tác: bệnh nhân không chú ý đến trang phục, mặc quần áo rất khó khăn, khó thực hiện được công việc hàng ngày. Bệnh nhân yếu cơ, run, hay bị chuột rút vì vậy ảnh hưởng đến các công việc vệ sinh cá nhân như tắm, rửa, thay quần áo...
Vì rối loạn trí nhớ và chú ý dẫn đến rối loạn khả năng nhận thức. Người bệnh có rối loạn khả năng định hướng không gian, thời gian, mất khả năng tính toán đơn giản, mất khả năng đánh giá...
Trầm cảm thường xuất hiện ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên các triệu chứng trầm cảm là không ổn định. Có lúc bệnh nhân có ý định tự sát, nhưng sau đó lại xuất hiện khoái cảm. Thường gặp là hoang tưởng bị hại, nhưng đôi khi cũng có ảo thị giác với các hình ảnh kỳ quái. Hình ảnh chụp cắt lớp (CT Scanner) não và chụp cộng hưởng từ (MRI) não có hình ảnh teo não lan toả, giãn rộng các não thất.
Cần làm các xét nghiệm cơ bản thường quy về huyết học (công thức máu; tốc độ máu lắng…), sinh hóa (máu, nước tiểu), vi sinh y học (chú ý phản ứng viêm gan, giang mai, HIV…). Cần chú ý tới nồng độ vitamin B12, chức năng tuyến giáp, nồng độ một số thuốc trong cơ thể.
Thăm dò chức năng: ghi điện tim, ghi điện não ….
Hình ảnh học: Siêu âm Doppler, siêu âm xuyên sọ, chụp X quang quy ước ngực, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chụp mạch máu não (CLVT, CHT, số hóa xóa nền), chụp CLVT phát điện tử dương (PET), chụp CLVT phát photon đơn (SPECT). Xét nghiệm dịch não-tủy.
Xét nghiệm dịch não-tủy và huyết thanh, đo nồng độ bêta-amyloid 1-40 và bêta-amyloid 1-42, Lejla K và cs (2010) thấy:.
Nồng độ bêta-amyloid 1-42 giảm thấp ngay từ giai đoạn tiền lâm sàng không phụ thuộc tuổi, giới, thời gian mắc bệnh.
Tỷ lệ bêta-amyloid 1-42/bêta-amyloid 1-40 giảm không phụ thuộc vào tuổi và giới.
Bệnh cảnh lâm sàng giống bệnh Alzheimer nhưng thường có đặc điểm là triệu chứng Parkinson xuất hiện sớm và nổi bật hơn; chức năng nhận thức dao động, có ảo thị và có xu hướng tiến triển nhanh hơn.
Các triệu chứng nhận thức khởi phát liên quan với vận động chậm chạp dưới một năm. Đặc biệt bệnh nhân thường nhậy cảm với tác động ngoại tháp của các thuốc điều trị loạn thần.
Bệnh này thường xảy ra ở độ tuổi 50-60. Ở giai đoạn sớm, bệnh nhân có biến đổi nhân cách, suy thoái kỹ năng xã hội, cảm xúc kém nhậy và có rối loạn ngôn ngữ. Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng khác của sa sút xuất hiện tiếp theo rối loạn trí nhớ. Cần chú ý là bệnh thường tiến triển nặng và có xu hướng nhanh hơn bệnh Alzheimer.
Để phòng ngừa suy giảm trí nhớ, mọi người nên thường xuyên hoạt động trí não như đọc báo, nghe nhạc, tham gia các buổi sinh hoạt, kể lại câu chuyện vừa đọc hay một bộ phim vừa xem xong; luyện tập các động tác thể dục nhẹ nhàng, đều đặn, duy trì chế độ ăn nhiều trái cây, rau, củ, hạn chế ăn chất béo, chất ngọt và các đồ uống kích thích như rượu, bia...
Nghỉ ngơi: Mỗi đêm ngủ đều đặn khoảng 8 giờ.
Tâm lý: Khi có kích lực (stress), cơ thể con người tiết ra cortizon; lượng nhỏ cortizon cải thiện trí nhớ còn lượng lớn sẽ xóa mòn hoạt động của tế bào thần kinh ở hải mã.
Ngoài ra cần quan tâm tới 10 dấu hiệu cảnh báo bệnh Alzheimer (theo Hiệp hội bệnh Alzheimer Hoa Kỳ).
- Mất trí nhớ ảnh hưởng tới kỹ năng nghiệp vụ.
- Khó thực hiện công việc trong gia đình.
- Khó khăn trong giao tiếp ngôn ngữ.
- Sai lạc định hướng thời gian và vị trí.
- Suy giảm phán đoán.
- Khó khăn trong suy nghĩ trừu tượng.
- Để đồ vật không đúng chỗ.
- Có biến đổi khí sắc hoặc ứng xử.
- Nhân cách biến đổi.
- Mất năng lực chủ động.
Trong đông y tuy không có ghi chép bệnh danh alzheimer nhưng dựa vào những triệu chứng trên biểu hiện chủ yếu trên lâm sàng mà bệnh thuộc phạm vi những bệnh sau "kiện vong", " ngai si", "bạch si", "thần ngai", "ngai bệnh", "si ngai", "chứng điên giả"...
Bệnh alzheimer hình thành chủ yếu do nguyên nhân bên trong bệnh nhân thời gian dài cơ thể hư nhược thất tình nội thương bệnh lâu ngày làm hao tổn.. . Là nguyên nhân dẫn đến khí huyết bất túc thận tinh khuyu hao, dịch não tuỷ mất sự nuôi dưỡng khí trệ đàm trọc huyết ứ bế trở kinh lạc mà tạo thành. Thận tinh khuyu hư không thể sinh tuỷ, bể của tuỷ trống trải hư nhược thần cơ mất dụng dẫn đến ngu si đần độn uất nộ thương can, can khí uất kết mà dẫn đến thương tỳ, tỳ mất kiện vận tạo thành thấp sinh đàm thanh khiếu bị khoả lắp sinh ra chứng ngu si đần độn; nghĩ ngợi nhiều quá thương tỳ, tỳ hư khí huyết không có nguồn sinh hoá khí huyết bất túc dẫn đến não mất nuôi dưỡng; hay kinh sợ khủng hoảng thương thận, thận tinh khuyu hao bể của tuỷ mất nuôi dưỡng thần cơ mất dụng dẫn đến chứng ngu si đần độn; bệnh lâu ngày khí huyết của ngủ tạng âm dương hao tổn não tuỷ mất sự nuôi dưỡng bệnh lâu ngày tà khí xâm nhập vào trong kinh lạc huyết vận hành không thông dẫn đến mạch não bế trở thanh khiếu mất sự nuôi dưỡng thần cơ mất dụng mà dẫn dến ngu si đần độn. Thận là gốc của tiên thiên có tác dụng tàng tinh sinh tuỷ, não tuỷ được sung mãn đầy đủ đa phần đều do sự tư dưỡng từ thận tinh thận tinh đầy đủ thì não tuỷ được nạp sung mãn người hoạt động trí óc thông minh lanh lợi. Đối với bệnh nhân người già thận tinh không đầy đủ bất túc não tuỷ không được nuôi dưỡng phản ứng chậm chạp đầu óc ngu si. Tỳ là nguồn sinh hoá của khí huyết tỳ hư dẫn đến khí huyết không đầy đủ phía trên không vinh nhuận được thanh khiếu phía dưới không tế được thận tinh não tuỷ mất nuôi dưỡng dẫn dến ngu si đần độn. Tỳ mất vận hoá thuỷ thấp nội đình biến thành đàm tà, đàm thấp mê phía trên mê thanh khiếu phía dưới tế thanh dương, thanh dương không thể vinh nhuận tập trung ở lạc não mà dẫn đến chứng ngu si. Thận khí khuyu hao tân dich mất chưng hoá biến thành đàm trọc mê bế não khiếu thần minh mất dụng mà dẫn đến ngu si đần độn. Người già chức năng tạng phủ khí huyết bị suy giảm huyết đình mà dẫn đến ứ trở trệ não khiếu não mạch không thông gây ra ngu si đần độn .
Ngoài ra vai trò của các yếu tố căng thẳng thần kinh tâm lý mà YHCT gọi là "Thất tình" bao gồm: hỉ (vui), nộ (giận), ưu (lo), tư (nghĩ), bi (buồn), khủng (sợ), kinh (khiếp). Các loại tình chí này khí cường độ vượt quá khả năng điều tiết của cơ thể và tác động kéo dài có thể gây thương tổn vào tạng phủ, làm hại đến nguyên thần, từ đó gây rối loạn hoạt động trí năng tinh thần của cơ thể, cái mà YHCT gọi là "linh cơ, ký tinh".
Cần phân biệt với sự giảm trí nhớ lành tính ở người cao tuổi.
Tuy chưa rõ nhưng theo các nhà nghiên cứu, có một số nguyên nhân thường được nhắc đến:
. Môi sinh (thuốc trừ sâu, môi trường ô nhiễm…).
. Bệnh tự miễn dịch.
. Sử dụng nhôm (được tìm thấy trong não bị lão hoá).
. Rối loạn ở đường dẫn truyền thần kinh liên quan đến trí nhớ.
. Di truyền (khoảng 10%).
Theo Đông Y: Do tiên thiên bất túc, do tuổi già, nội thương do thất tình, ăn uống không điều hoà.
Khởi đầu bởi nhiều rối loạn nhẹ, sau đó là trí nhớ giảm dần và không hồi phục được.
Bệnh diễn tiến qua bốn giai đoạn:
Bước đầu là khó khăn trong việc nhận biết được những gì mới, rối loạn về ngôn ngữ, đặc biệt là tìm chữ để nói, khó tập trung tư tưởng, thay đổi nhân cách, có khi trở nên hung hăng, khiêu khích.
Bước thứ hai là không thể nhớ nổi, hay quên rồi dần thành đãng trí, thờ ơ. Bệnh nhân không tự chăm sóc được cho mình kể cả ăn mặc, vệ sinh. Rồi không phân biệt được sáng, chiều, tối, không còn đọc được, không hiểu người khác nói gì, không nhận ra người thân, hoàn toàn mất hết nhận thức. Có thể bị ảo giác, ảo tưởng, dáng đi thay đổi, run rẩy nhưng hiếm khi bị run lúc nghỉ
Giai đoạn nặng hơn, bệnh nhân không thể đi được, không làm được bất cứ việc gì thậm chí không thể nuốt và ăn được. Giai đoạn cuối, bệnh nhân bị hôn mê và chết do rối loạn dinh dưỡng, nhiễm trùng thứ phát, bệnh lý tim mạch…
Thường bệnh diễn tiến khoảng 8 ~ 10 (có khi đến 25 năm).
Theo Đông Y
Triệu chứng: Dễ tức giận, Tâm phiền, uất ức, không muốn nói, hông sườn đầy tức, đau, lưỡi bẩn, rêu lưỡi dầy, nhớt, mạch Hoạt.
Pháp: Sơ Can, lý khí, hoạt huyết, hoá đờm.
Phương: Can Uất Phương Gia Vị:
Xuyên khung | 15 | Đan sâm | 15 | Hồng hoa | 12 | ||
Xích thược | 12 | Hương phụ | 12 | Bán hạ | 9 | Sài hồ | 9 |
Thanh bì | 9 | Trần bì | 9 | Thạch xương bồ | 9 | ||
Sắc uống.
Hoả thịnh thêm Chi tử, Đơn bì đều 9g; Huyết hư thêm Đương quy 9g, thay Xích thược bằng Bạch thược; Tỳ hư thêm Bạch truật, Phục linh đều 9g, Cam thảo 6g.
Triệu chứng: Bệnh kéo dài, chóng mặt, đầu váng tê và rung chân tay, trí nhớ giảm, chậm chạp, mắt không còn thần (dại), da mặt kém tươi, mồ hôi trộm, da khô, tức giận bất thường, run hoặc co rút cơ. Nặng hơn thì không đi lại được, liệt nửa người, khó nói, lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Tế Sác.
Thục địa | 15 | Phục linh | 15 | Sơn thù | 12 | ||
Đan bì | 12 | Trạch tả | 12 | Xích thược | 12 | Bạch thược | 12 |
Xuyên khung | 12 | Hồng hoa | 12 | Đào nhân | 9 | Xương bồ | 9 |
Viễn trí | 9 |
Tỳ hư thêm Bán hạ, Sơn dược đều 9g, Trần bì 6g. Âm hư hoả vượng thêm Tri mẫu và Hoàng bá 9g. váng đầu chóng mặt thêm Từ thạch 12g, Thiên ma, Câu đằng, Nữ trinh tử đều 9g. Họng khô, táo bón thêm Thiên hoa phấn, Bá tử nhân, Tang thầm. Lưỡi cứng khó nói thêm Trân châu mẫu, Bách hợp đều 12g. Liệt nửa người, tê tay chân, thêm Kê huyết đằng, Đan sâm đều 15g, Đương quy, A giao đều 9g.
Triệu chứng: Di chuyển chậm, mất trí nhớ lẫn nhân cách, nói khó, nặng hơn thì không nói được, không suy nghĩ gì được, nói lộn xộn, mất trí nhớ, tê chân tay, lưỡi tối nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế, Hoạt Tế, Sáp.
Pháp: Ôn Thận, kiện Tỳ, hoá đờm, tán ứ.
Phương: Phụ tử nam tinh uất kim Thang:
Sơn thù | 12 | Uất kim | 12 | Đào nhân | 12 | ||
Chỉ sác | 9 | Đởm nam tinh | 9 | Hồng hoa | 9 | Nhục quế | 6 |
Phụ tử | 6 |
Chóng mặt, ù tai thêm Tang ký sinh 12g, Câu kỷ tử, Thiên ma, Tục đoạn đều 9g. Mệt mỏi, không có sức thêm Hoàng kỳ 15g, Đảng sâm, Bạch truật đều 9g, Cam thảo 6g.
Triệu chứng: Lẫn lộn, không phân biệt được, buồn sầu, hay khóc, trầm tư, nói khó, đi đứng chậm, tinh thần mệt mỏi, tự ra mồ hôi, không có sức, hồi hộp, sợ hãi, hơi thở ngắn, biếng ăn, lưới nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch Tế, Nhược.
Pháp: Dưỡng Tâm, kiện Tỳ, an thần, ích trí.
Phương: Dưỡng Tâm Thang:
Nhân sâm | 12 | Mạch môn | 12 | Táo nhân | 12 | ||
Đương qui | 9 | Thục địa | 9 | Sinh địa | 9 | Phục linh | 9 |
Bá tử nhân | 6 | Ngũ vị | 6 | Cam thảo | 3 | ||
Nói lẫn lộn thêm Thạch xương bồ, Long xỉ, Uất kim; Thấp ngăn trở trung tiêu, bỏ Đương quy, Bá tử nhân, Toan táo nhân và Ngũ vị tử, thêm Hoắc hương, Bội lan, Thạch xương bồ và Bạch đậu khấu đều 9g. Lưỡi đỏ, mạch Sác thêm Hoàng liên 9g. Huyết ứ, thêm Đan sâm 9g, Hổ phách 3g. Đờm nhiều thêm Thạch xương bồ, Viễn chí, Bán hạ và Trần bì đều 9g.
Châm Cứu: Tâm du, Cách du, Tỳ du, Chí thất, Bá hội, Tứ thần thông.
Triêu chứng: Nhức đầu, chóng mặt, mặt đỏ, mắt đỏ, bứt rứt, ngủ không ngon giấc, ngủ hay mơ, lưỡi cứng, khó nói, tê tay chân, khó cử động miệng và mắt, liệt nửa người, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng hoặc hơi vàng, nhờn, mạch Tế Sác.
Pháp: Bình can, tiềm dương, tỉnh thần, khai khiếu.
Phương: Dùng bài Thiên Ma Câu Đằng Ẩm gia vị:
Tang kí sinh | 12 | Toan táo nhân | 12 | Xương bồ | 12 | ||
Bạch thược | 12 | Câu Kỉ tử | 12 | Thiên ma | 12 | Câu đằng | 12 |
Đỗ trọng | 12 | Ngưu tất | 12 | Dạ giao đằng | 12 | Hoàng cầm | 12 |
Ích mẫu | 12 | Thạch quyết minh | 6 | Chi tử | 6 | Phục linh | 6 |
Táo bón, nước tiểu đỏ thêm Đại hoàng 6g; Mang tiêu 6g; Hông sườn đau thêm Thanh bì 9g, Diên hồ sách 15g; Hồi hộp không yên thêm Mẫu lệ, Long cốt đều 12g
Triệu chứng: đau đầu, bứt rứt, mặt đỏ, môi đỏ, khó ngủ, ngủ hay mơ, nói năng lẫn lộn, nói cười huyên thuyên, lo âu, không phân biệt thân quen, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, nhất là đầu lưỡi, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Sác.
Pháp: Thanh Tâm, tả hoả, an thần.
Dùng bài Tả Tâm Thang hợp với Đạo Xích Tán:
Sinh địa | 30 | Huyền sâm | 15 | Từ thạch | 15 | ||
Long cốt | 12 | Hoàng cầm | 9 | Chi tử | 9 | Đan bì | 9 |
Uất kim | 9 | Đại hoàng | 6 | Mộc thông | 6 | Đạm trúc diệp | 6 |
Cam thảo tiết | 3 | Hoàng liên | 3 |
Miệng và họng khô thêm Mạch môn, Thiên môn, Bách hợp đều 12g, Thạch hộc 9g; Mất ngủ, hay mơ thêm Toan táo nhân, Dạ giao đằng đều 12g, Phục thần 9g..
Nặng đầu, da mặt vàng bủng, phù thủng, mệt mỏi, ngủ mê mệt, thở khò khè, nói năng lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, không chú ý đến sự hiện diện của người khác, khạc nhổ đờm, bụng đầy trướng. Nặng hơn thì mất cảm giác, không thể tự làm những công việc của riêng mình (ăn uống, tiêu tiểu…), lưỡi nhạt, nhờn, mạch Hoạt, Nhu.
Pháp: Kiện Tỳ, hoá đờm, tỉnh não, khai khiếu.
Dùng bài Tẩy Tâm Thang:
Nhân sâm | 12 | Phục thần | 12 | Táo nhân | 12 | ||
Bán hạ | 9 | Xương bồ | 9 | Trần bì | 6 | Kỉ tử | 6 |
Cam thảo | 6 | Phụ tử | 3 |
Đờm nhiều thêm Triết bối mẫu, Đởm nam tinh, Viễn chí đều 9g; Bụng đầy trướng, bỏ Nhân sâm, Phụ tử thêm Toan táo nhân, Hoắc hương, Bội lan, Hậu phác, Lai phục tử, Chỉ xác , Mộc hương đều 9g.
Điều Dưỡng
Hướng dẫn người bệnh tập luyện để giữ càng lâu càng tốt những hoạt động tối thiểu trong đời sống hàng ngày như dùng gậy khi di chuyển, cầm đũa, muống…
Các chuyên viên về thần kinh đều thống nhất là bệnh nhân Alzheimer không mất hoàn toàn khả năng hiểu biết, vì vậy việc tập luyện ở người cao tuổi để kích thích trí tuệ rất quan trọng.
Triệu chứng: bệnh nhân đau đầu hoa mắt chóng mặt tai ù hay quên người uỷ mị ít nói nặng có thể thần chí ngu si nói cười thất thường ngôn ngữ mất kiểm soát chất lưỡi đạm đỏ hình thái lưỡi to rêu lưỡi mỏng trắng mạch trầm huyền
Pháp trị bổ thận trợ tinh ích khí dưỡng thần.
Dùng bài giác lộc nhị tiên cao hợp với đại định phong châu gia giảm
Giác bản | 20g | Miết giáp | 15g | Sinh mẫu lệ | 15g | ||
Câu đằng | 15g | Kê tử hoàng | 12g | A giao | 6g | Câu kỳ tử | 12g |
Lộc nhung | 10g | Thục địa | 12g | Sinh địa | 12g | Bạch thược | 15g |
mạch đông | 12g | ma nhân | 12g | nhân sâm | 15g |
Nếu can phong kèm theo co giật hoa mắt chóng mặt gia thăng ma toàn ngạch thạch quyết minh.
Nếu âm hư hoả vượng thường thấy ngủ tâm phiền nhiệt mất ngủ tiện bí gia hoàng bá tri mẫu đan bì nguyên sâm.
Triệu chứng: Trí tuệ bị giảm sút khả năng ghi nhớ tính toán định hướng phán đoán đều giảm sút rõ rệt tinh thần đờ đẫn không thể diễn tả được ngôn từ chóng mặt tai ù bụng đau thích xoa cơ nhục mềm nhão ăn ít không muốn ăn tiết tả lười tiếp xúc thích nằm lưng gối đau mỏi lưỡi gầy sắc đạm rêu mỏng trắng mạch trầm tế nhược.
Pháp trị bổ thận kiện tỳ ích khí sinh tinh.
Dùng bài hoàn thiếu đan gia giảm
thục địa | 20g | câu kỳ tử | 15g | đỗ trọng | 15g | ||
sơn thù du | 15g | nhục thung dung | 10g | tiểu hồi hương | 10g | thạch xương bồ | 10g |
ngưu tất | 15g | chử thực tử | 12g | nhân sâm | 15g | phục linh | 12g |
sơn dược | 12g | đại táo | 3quả | viễn trí | 10g | ngũ vị tử | 10g |
Triệu chứng bệnh nhân ngu si đờ đẫn trí lực giảm sút cười nói bất thường tự nói một mình hoặc có lúc không nói gì không muốn ăn uống bụng sườn đau chướng mãn miệng hay chảy nước bọt đầu nặng như búa bổ chất lưỡi đạm rêu lưỡi trắng dính mạch hoạt.
Pháp trị kiện tỳ hoá trọc khoát đàm khai khiếu .
Dùng bài thông khiếu hoá đàm thang
Thạch xương bồ | 15g | Uất kim | 15g | Đởm nam tinh | 15g | ||
Bán hạ | 12g | Bạch truật | 15g | Phục linh | 15g | Thăng ma | 12g |
Toan táo nhân | 12g | Ích trí nhân | 12g | Đan sâm | 15g | Trần bì | 12g |
Cam thảo | 6g |
Triệu chứng bệnh nhân tinh thần châm chạp lời nói diễn đạt bất lợi hay quên dễ kinh sợ tư duy thất thường hành vi cổ quái miệng khô nhưng không muốn uống nước hai mắt tối đen chất lưỡi tối có điểm ứ huyết mạch tế nhược.
Pháp trị hoạt huyết hoá ứ khai khiếu tỉnh não.
Dùng bài thông kiếu hoạt huyết thang gia giảm
Xích thược | 20g | Xuyên khung | 15g | Đào nhân | 15g | ||
Táo đỏ | 3 quả | Hồng hoa | 15g | Xạ hương | 15g | Sinh khương | 3 |
Lát đan sâm | 15g | Cát căn | 15g | Sơn dược | 15g | Câu kỳ tử | 15g |
Sơn dược | 10g | Sinh sơn tra . | 10g |
Can thiệp dược lí
Nếu giảm acetylcholine gây ra AD thì tăng acetylcholine đến nồng độ thích hợp có thể phục hồi được các triệu chứng của bệnh. Các thuốc được điều chế nhằm ngăn ngừa acetylcholinesterase phân huỷ acetylcholine ở khe xinap và tăng khả năng tái hấp thu ở thụ thể sau xinap .
Phương pháp thứ hai để làm tăng nồng độ acetylcholine là uống nicotine nhằm tăng tiết acetylcholine. Thực nghiệm cho thấy bằng cách này đã cải thiện được trí nhớ ở khỉ già (Buccafusco and Jackson 1991). Những người bị AD cũng có sự cải thiện một số khía cạnh về nhận thức và cảm xúc sau khi tiêm nicotine. Tuy nhiên chưa có đủ cứ liệu tin cậy chứng tỏ hiệu quả của nicotne trong điều trị AD.
Một cách tiếp cận dược lí hoàn toàn khác đó là tìm cách phong toả sự sản sinh beta amyloid trong não thông qua việc sử dụng vacxin. Nghiên cứu thử trên chuột cho thấy vacxin có được một số mức độ bảo vệ, chống tạo mảng (Schenk và cs., 1999) và bước đầu cho thấy tiêm một loại vacxin vẫn bảo đảm an toàn trên người. Hơn thế nữa, Weiner và cs.(2000) đã phát hiện thấy đáp ứng tuy nhỏ nhưng rất quan trọng khi dùng trên chuột bằng đường nhỏ mũi: cách điều trị này có thể được chấp nhận trong khoảng thời gian dài (thậm chí suốt đời).
Can thiệp tâm lí nhằm cải thiện tối đa chất lượng cuộc sống và các chức năng tâm lí trong diễn tiến của bệnh. Các nhóm hỗ trợ gồm những người khác nhau với những vấn đề giống nhau có thể cải thiện hỗ trợ các chiến lược đối phó trong những giai đoạn sớm của AD .
Định hướng hiện thực (RO - Theo cách gọi của Holden & Woods, 1995) gồm trang bị cho người già có dấu hiệu lú lẫn những thông tin phù hợp giúp họ hiểu cẩn thận hơn về thế giới xung quanh. RO 24 giờ nhằm tạo ra một môi trường với nhiều chỉ dẫn giúp cá nhân định hướng được thời gian, không gian và bản thân: những chiếc đồng hồ và lịch rất to; các chỉ dẫn nhắc nhở tên gọi của cơ sở hoặc khu điều trị tên gọi các phù hiệu ...
Để khắc phụ những nhược điểm của RO, Feil (1990) đã đưa ra một dạng trị liệu khác trị liệu ‘hiệu lực’. Trị liệu này bao gồm lắng nghe và chú ý đến tất cả những sự lo sợ của người bệnh, dành thời gian để hiểu cặn kẽ những vấn đề của họ và làm cho những vấn đề này có “hiệu lực” bằng cách đánh giá những gì họ cần phải nói. Những cuộc trò chuyện như vậy cần phải tạo cơ hội để xác định và làm thay đổi những niềm tin sai lầm, tuy nhiên đây chưa phải là yếu tố cốt lõi của tiếp cận này. Tiêu điểm là tập trung vào nghe và đáp lại các phản ứng cảm xúc hơn là nội dung thực những gì họ nói.
Có 3 dạng liệu pháp hồi tưởng (Mc Malion & Phuclick, 1964). Hồi tưởng dạng câu chuyện bao gồm tái hiện những sự kiện dễ chịu. Nhìn lại cuộc đời bao gồm tái hiện và thảo luận trí nhớ cả những sự kiện tốt và xấu, những sự kiến chủ yếu từ ý thức. Cuối cùng là hồi tưởng hào quang bao gồm tập hợp nhiều lần những tình huống gây đau khổ hoặc thất vọng. Nhìn lại cuộc đời và hồi tưởng hào quang được cho là có tác dụng hỗ trợ giải quyết xung đột trong quá khứ.
Liệu pháp hồi tưởng dựa trên mô hình phát triển của Erikson (1980) trong đó nhìn lại cuộc đời thường xuất hiện về cuối cuộc đời. Nhìn lại cuộc đời nói chung có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Trong liệu pháp cá nhân, nhà trị liệu trợ giúp cá nhân làm sáng tỏ hơn và hiệu quả hơn sự phân tích bản thân. Trong liệu pháp nhóm, các nhóm nhỏ xem xét cuộc sống của các thành viên thông qua việc sử dụng những gợi ý như các bức ảnh cũ, các buổi phát thanh hoặc truyền hình …
Mặc dù những cách tiếp cận quan sát được (operant) nhằm thay đổi hành vi ở những người già lú lẫn tạo ra được sự chú ý nhất định song chưa có nhiều thông báo về việc sử dụng cũng như hiệu quả của nó. Tuy vậy những nghiên cứu đã sử dụng qui trình này cho thấy nhìn chung là có hiệu quả.
Chăm sóc những người bị AD tại nhà cũng tạo ra rất nhiều căng thẳng cho những người chăm sóc, nhất là khi mà bản thân họ cũng thường là người già và sức khoẻ cũng có hạn chế. Một số hình thức hỗ trợ và giúp đỡ cũng đem lại lợi ích nhất định.
Phân biệt dấu hiệu ban đầu bệnh Alzheimer
Mới đây, các nhà khoa học Mỹ thuộc Trường đại học California, Irvine cùng với sự giúp đỡ của các tình nguyện viên độ tuổi từ 18-89 đã xác định được một phần trong bộ não con người mà từ lâu chúng ta
Chuẩn bị thử nghiệm vaccin Alzheimer mới
Loại vaccin hiện tại được dùng để điều trị, điều này có nghĩa là nó được chỉ định điều trị đối với những bệnh nhân đã mắc bệnh.
Ăn kiêng giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer
Chế độ ăn uống nhiều dầu oliu, các loại hạt, cá và một số loại trái cây, rau quả có thể giảm tối đa nguy cơ mắc bệnh Alzheimer, một nghiên cứu mới công bố.
Sóng điện thoại có thể đẩy lùi bệnh Alzheimer
Một nghiên cứu mới đây cho thấy sóng điện từ của điện thoại có thể giúp phòng và đẩy lui căn bệnh đãng trí phổ biến Alzheimer.
Phát hiện mới về bệnh Alzheimer
Lâu nay, người ta cho rằng bệnh Alzheimer chỉ là bệnh thoái hoá thần kinh chứ không bao giờ nghĩ rằng đó lại là một bệnh lây truyền.
Chụp cắt lớp não để sớm biết dấu hiệu bệnh Alzheimer
Những người sống trong gia đình có tiền sử mắc bệnh Alzheimer thường có khối protein độc hại tồn tại trong não mặc dù họ hoàn toàn khỏe mạnh.
Khứu giác kém, cảnh báo nguy cơ mắc bệnh Alzheimer
Một nghiên cứu mới công bố ngày 13/1/2010 trên tạp chí Khoa học thần kinh Mỹ cho thấy mất khả năng khứu giác có thể là dấu hiệu sớm cảnh báo mắc bệnh Alzheimer.
Thiếu ngủ sẽ tăng nguy cơ mắc Alzheimer
Alzheimer là bệnh thoái hóa não bộ không phục hồi và gây nên chứng sa sút trí tuệ ở người cao tuổi. Các nhà khoa học Mỹ vừa đưa ra thêm 1 nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao, đó là chứng thiếu ngủ
Liệu pháp miễn dịch giúp giảm nguy cơ bị bệnh Alzheimer
Theo kết quả một nghiên cứu mới đây, trị liệu miễn dịch đường tĩnh mạch (IVIg) có thể giúp giảm nguy cơ bị bệnh Alzheimer và các rối loạn não tương tự khác.