Bệnh giãn phế quản được định nghĩa là giãn không hồi phục một phần của cây phế quản, có thể giãn ở phế quản lớn trong khi phế quản nhỏ vẫn bình thường hoặc giãn ở phế quản nhỏ trong khi phế quản lớn bình thường
Giãn phế quản ở thời đại trước khi có kháng sinh là một bệnh thường gặp và thường dẫn đến tàn phế và tử vong. Nhưng nó đã trở nên một bệnh tương đối hiếm ở những nước đã phát triển trong vòng 30 năm qua. Những thay đổi đó là nhờ từ hiệu quả của kháng sinh dùng điều trị nhiễm trùng đường hô hấp và từ việc sử dụng rộng rãi thuốc tạo miễn dịch ở trẻ em, đặc biệt là chống lại bệnh sởi và ho gà .
Ở một số bệnh viện nhi ở Anh, từ 1952-1960 tỷ lệ bệnh nhân giãn phế quản nhập viện đã giảm từ 48/1000 người nhập viện xuống còn10/1000 người nhập viện .
Tại bệnh viện nhi Boston, số trẻ em mới mắc bệnh giãn phế quản liên quan tới nhiễm khuẩn đã giảm từ 47 ca (trong các năm 1946-1950) xuống còn 2 ca (trong các năm 1956-1960). Tại Bệnh viện đa khoa Massachuset số bệnh nhân giãn phế quản/1000 người nhập viện đã giảm từ 45 trong năm 1947 xuống còn 9 trong năm 1984 .
- Nguyên nhân bẩm sinh: giãn phế quản bẩm sinh ít gặp do phổi ngoại vi phát triển kém dẫn đến các phế quản bị giãn .
+ Hội chứng Kartagener: bao gồm các bệnh phối hợp với nhau đó là giãn phế quản lan toả + polip mũi + viêm xoang + đảo lộn phủ tạng. Người ta coi là một phân nhóm của hội chứng rối loại vận động nhung mao nguyên phát (PCDS: Primary
Ciliary Dyskinesia Syndroms); trong hội chứng này có bất thường về cả cấu trúc và chức năng của nội bào nhung mao, rối loạn thanh thải chất nhầy do đó dẫn đến nhiễm khuẩn phế quản tái diễn và giãn phế quản. Ngoài ra bệnh nhân có thể viêm mũi mạn tính, viêm tai giữa, vô sinh (nam), bất thường về giác mạc, đau đầu và khứu giác kém .
+ Hội chứng Mounier-Kuhn: là hội chứng bao gồm giãn phế quản + viêm xương sàng : phế quản bị phì đại, đường kính có thể rộng gấp 2 lần bình thường. Trong hội chứng này khí phế quản bị phì đại do khuyết tật cấu trúc của tổ chức liên kết ở thành phế quản làm cho giãn phế quản .
+ Hội chứng Williams-Campbell: do khuyết tật ở cấu trúc sụn phế quản làm cho phế quản phình ra khi thở vào, xẹp xuống khi thở ra .
+ Hội chứng móng tay vàng (yellow nail syndrome): do giảm sản bẩm sinh hệ thống bạch huyết. Bệnh nhân có các biểu hiện móng tay dày, cong, vàng nhạt; có phù bạch huyết nguyên phát và giãn phế quản .
Giãn phế quản hình thành sau quá trình viêm hoại tử phế quản, thường do nhiễm khuẩn phổi hoặc phế quản tái diễn ví dụ : bệnh sởi, ho gà, cúm ... nhất là ở trẻ nhỏ bị thiếu hụt miễn dịch bẩm sinh (thiếu hụt Gama-Globulin máu). Người tiếp xúc với hơi hoá chất độc hại hoặc hoá chất lọt vào đường thở (hít phải xăng) gây tổn thương mòn, loét phế quản cũng là nguyên nhân gây giãn phế quản. Tác nhân hoá học thường kết hợp với nhiễm khuẩn thứ phát gây viêm hoại tử phế quản. Thành phế quản bị phá huỷ trực tiếp bởi nhiễm khuẩn, hoá chất độc hại, phản ứng miễn dịch hoặc do bất thường mạch máu phế quản gây cản trở nuôi dưỡng phế quản .
Chít hẹp phế quản do u, dị vật , lao hạch chèn ép phế quản làm phế quản dưới chỗ chít hẹp tăng áp lực thường xuyên và dễ bội nhiễm và gây giãn phế quản .
Giãn phế quản do tổn thương xơ xung quanh phế quản gây co kéo hay gặp trong lao xơ hang, lao xơ phổi , áp xe phổi mãn tính ; bệnh phế nang viêm xơ hoá . Sự thay đổi cơ học này do xẹp, do mất thể tích nhu mô phổi, làm tăng co kéo thành đường thở, dẫn đến dễ nhiễm khuẩn thứ phát và giãn phế quản .
+ Các tác giả còn nói đến giãn phế quản trong suy giảm miễn dịch bẩm sinh (giảm Gama-Globulin máu) ; suy giảm miễm dịch trong bệnh HIV/AIDS, các suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải đều làm tăng sự mẫn cảm của cơ thể với nhiễm khuẩn hoặc tổn thương hô hấp . Giãn phế quản trong bệnh Aspergillus phổi- phế quản dị ứng ; đây là một kiểu giãn phế quản hiếm gặp xẩy ra ở bệnh nấm phổi phế quản dị ứng. Người ta cho rằng tổn thương thành phế quản là do đáp ứng miễn dịch đối với một protease do nấm tiết ra, phổ biến nhất hiện nay là nấm Aspecgillus fumigatus, nó cho phép các vi sinh vật gây viêm và phá huỷ tiếp theo , gây giãn phế quản .
+ Nhiều người cho rằng các bệnh tự miễn có thể liên quan tới bệnh giãn phế quản như : viêm khớp dạng thấp, viêm tuyến giáp Hasinomoto và viêm đại tràng loét. Tuy nhiên chưa được chứng minh rõ ràng .
+ Giãn phế quản do khuyết tật về thanh lọc nhầy rung mao .
+ Giãn phế quản vô căn (Idiopathic bronchiectsis), chiếm tỷ lệ rất ít không tìm được nguyên nhân .
Như vậy giãn phế quản có thể do bẩm sinh có thể do mắc phải; nhưng giãn phế quản chủ yếu là do mắc phải (thứ phát) sau viêm phổi vi rút, vi khuẩn... bệnh thường phát triển từ khi còn trẻ nhỏ. Quá trình viêm nhiễm khuẩn, nhiễm vi rút đường hô hấp tái diễn khi còn nhỏ, lao phổi mạn tính (xơ hang, xơ phổi) là những nguyên nhân hay gặp của giãn phế quản .
+ Bình thường vi khuẩn rất khó kết dính vào biểu mô phế quản nhưng khi biểu mô phế quản bị tổn thương do độc tố vi khuẩn thì vi khuẩn lại dễ kết dính vào biểu mô và gây viêm dần dần làm cho thành phế quản bị phá huỷ và bị giãn. Các nội độc tố của vi khuẩn và các protease có nguồn gốc từ các tế bào viêm ở phổi hoặc các mạch máu, các gốc oxy hoá và các phức hợp kháng nguyên kháng thể có thể là trung gian gây tổn thương thành phế quản. Người ta thấy rằng số lượng bạch cầu N hoạt hoá, men Elastase, cathepsin G,... tìm thấy trong dịch rửa phế quản của bệnh nhân và tăng theo mức độ nặng của giãn phế quản. Hơn nữa các kháng protease như a1-Antitrypsin và Antichymotrypsin có thể bị thuỷ phân thành các dạng có trọng lượng phân thử thấp hơn và không thể bảo vệ được chất cơ bản gian bào khỏi sự phá huỷ .
+ Việc phát hiện các Cytokin tiền viêm như IL 1B, IL 8 và yếu tố hoại tử U-a ( TNF-a ) trong đờm bệnh nhân cũng như sự tác động của các Cytokin với tế bào N, dẫn tới giả thuyết cho rằng sự tác động qua lại đó có thể dẫn đến sự tuyển mộ và hoạt hoá các tế bào viêm, tác động tới sự sống sót của các tế bào viêm đó và điều chỉnh, kéo dài quá trình viêm, và là một đặc diểm quan trọng của bệnh sinh giãn phế quản .
+ Chất oxyt nitơ cũng tác động tới đáp ứng miễn dịch, tiết huyết tương ở các vị trí viêm và duy trì quá trình viêm ở bệnh giãn phế quản. Người ta thấy rằng oxyt nitơ ở khí thở ra ở người bệnh nhân giãn phế quản tăng hơn ở người bình thường .
+ Tổn thương cơ bản trong bệnh giãn phế quản là sự phá huỷ cấu trúc cơ sợi chun giãn, sụn của thành phế quản, nghĩa là phá huỷ kết cấu của thành phế quản và thay thế bằng tổ chức xơ .
+ Vỏ ngoài phế quản phát triển mạnh tuần hoàn động mạch phế quản, lòng của động mạch phế quản tăng lên, nhiều chỗ bị phình giãn ra, đặc biệt là phát triển các chỗ nối động mạch phế quản với động mạch phổi tạo nên các sunt (đoạn dừng VolHayek) . Các chỗ nối này dễ bị vỡ là nguyên nhân gây khái huyết trong giãn phế quản .
+ Các phế quản không bị giãn thì bị viêm mạn tính lan toả, niêm mạc phế quản bị xâm nhiễm bởi các nang dạng lympho, các tuyến phế quản bị phì đại tăng sinh, tăng tiết, màng đệm dày lên, chỉ số Reid (là tỷ số giữa tuyến và thành phế quản) tăng, bình thường chỉ số Reid không quá 0,4. Trong trường hợp các tuyến nhầy phế quản tăng sinh và phì đại, chỉ số Reid có thể tăng trên 0,7 .
Phổi ở chung quanh các phế quản giãn bị xẹp lại do các tiểu phế quản ngoại vi bị tắc nghẽn, xung quanh các tiểu phế quản bị xơ hoá, phát triển khí thũng phổi xung quanh tổn thương xơ, các thành phế nang dày lên hoặc teo lại, có các tổn thương viêm phổi ở quanh ổ giãn .
+ Giãn phế quản có thể bị ở một bên phổi hoặc ở cả hai bên, nhưng thường gặp nhất ở thuỳ dưới. Cách phân loại cổ diển như giãn phế quản hình trụ, hình túi... là dựa vào bệnh học và hình ảnh Xquang (chụp phế quản cản quang) .
+ Về mặt bệnh lý, thành các phế quản bị căng giãn, viêm mạn tính, phá huỷ, tăng tiết nhầy và mất nhung mao. Các vùng phế nang (nhu mô phổi) xơ hoá dẫn đến xẹp phổi, mất thể tích... Giãn phế quản thường kết hợp với viêm phế quản mạn tính hoặc khí thũng phổi và xơ phổi. Phạm vi tổn thương giãn phế quản và đặc điểm thay đổi bệnh học hô hấp quyết định các rối loại chức năng và huyết động, những rối loạn đó thường bao gồm giảm lưu lượng thở và giảm các thể tích phổi; mất cân bằng tỷ số thông khí dòng máu (VA/QC) và giảm oxy trong máu. Sự thông nhau giữa các động mạch phổi và phế quản có thể xẩy ra giãn các động mạch phổi, chỗ nối thông giữa các tĩnh mạch phổi và phế quản cũng giãn. Kết quả là tăng dòng máu, Shunt phải-trái và giảm oxy máu dẫn đến cao áp động mạch phổi và tâm phế mạn xuất hiện ở giai đoạn cuối của bệnh .
- Giãn phế quản thể khô: thường hay bị ở thuỳ trên; chủ yếu ho khạc ra máu, ít có khạc đờm .
- Giãn phế quản thể ướt: chủ yếu ở thuỳ dưới hoặc lan toả ở hai phổi, bệnh nhân ho khạc đờm nhiều, hay có các đợt bội nhiễm vi khuẩn .
- Giãn phế quản thể hỗn hợp: vừa có ho máu vừa có khạc nhiều đờm .
- Giãn phế quản bẩm sinh ( nguyên phát ) .
- Giãn phế quản mắc phải ( thứ phát ) .
- Giãn phế quản cục bộ: thường là mắc phải, các ổ giãn khu trú, ít khạc đờm hay có khái huyết; lâm sàng lặng lẽ .
- Giãn phế quản lan toả: thường bị bệnh từ lúc trẻ. Bệnh nhân ho khạc đờm nhiều, khó thở, khái huyết tái diễn, suy hô hấp và tâm phế mạn xuất hiện sớm .
- Giãn phế quản hình trụ .
- Giãn phế quản hình túi .
- Giãn phế quản hình tràng hạt .
- Giãn phế quản thể hỗn hợp .
Có tác giả còn đưa ra các thể giãn phế quản: thể xẹp phổi(33,8%); thể áp xe hoá(18,3%); thể giả lao phổi(11,3%); thể viêm phổi mạn tính(7%); thể giả u(5,6%) .
Triệu chứng lâm sàng của giãn phế quản phụ thuộc vào độ lan rộng, mức độ nặng nhẹ, thời gian mắc bệnh và biến chứng .
Giãn phế quản có thể phát triển ở bất kỳ tuổi nào, nhưng thường bắt đầu ở trẻ nhỏ, nhưng các triệu chứng lâm sàng thì xuất hiện muộn hơn từ sau tuổi trưởng thành đến tuổi già. Các triệu chứng lâm sàng thay đổi nhiều từ bệnh nhân này đến bệnh nhận khác, từ thời gian này đến thời gian khác trong mỗi cá thể, và tùy thuộc vào thể bệnh, mức độ bệnh và biến chứng .
Nhìn chung khởi đầu của bệnh thường rất sớm (trước tuổi 20) hoặc từ tuổi nhỏ. Trong bệnh sử bệnh nhân thường hay có các đợt ho, sốt do nhiễm khuẩn, viêm đường hô hấp trên hoặc ở những bệnh nhân đã mắc lao phổi .
+Giãn phế quản thể ướt:
Toàn thân thường có những đợt sốt tái diễn,gầy sút thiếu máu, yếu sức .
Các triệu chứng cơ năng thường gặp và là những triệu chứng cổ điển như: ho, khạc đờm nhiều, số lượng có thể tới 300ml/24giờ, thường khạc vào buổi sáng sớm. Khi có các đợt nhiễm khuẩn thì khạc đờm nhầy mủ, khi khạc đờm mủ thì bệnh nhân sốt tăng. Đờm khạc ra nếu để lắng vào cốc thì thường có 3 lớp theo thứ tự từ trên xuống: bọt - nhầy -mủ .
Hầu hết các bệnh nhân có ho kéo dài và khạc đờm nhiều. Các triệu chứng này thường bắt đầu âm thầm và thường sau nhhiễm trùng hô hấp và có xu hướng nặng dần qua chu kỳ hàng năm .
Ho ra máu là triệu chứng khá phổ biến có thể ho ra máu ít hoặc nhiều (trẻ em ít gặp ho ra máu) .
+ Giãn phế quản thể khô:
Toàn thân ít khi có sốt, cơ thể ít gày sút. Triệu chứng cơ năng chủ yếu là
ho ra máu tái diễn, ít khạc đờm .
Triệu chứng khó thở thường gặp ở giãn phế quản lan toả, nặng ở giai đoạn cuối của bệnh .
Ngón tay dùi trống gặp ở 1/3 đến 1/2 số bệnh nhân giãn phế quản, nhưng chủ yếu gặp ở bênh nhân thể lan toả, thể ướt, bị lâu năm .
Nghe phổi có ran ẩm, ran nổ ở một bên phổi hoặc cả hai bên đáy phổi, vị trí nghe khá cố định. ở thể giãn phế quản lan toả cả hai phổi bội nhiễm có thể nghe thấy cả ran rít, ran ngáy nhưng ran ẩm ran nổ vẫn chủ yếu. Khi có ran ẩm ran nổ khu trú thường xuyên ở đáy phổi, trong khi Xquang phổi chuẩn bình thường thì có thể nghĩ tới giãn phế quản .
Có thể khám thấy hội chứng đông đặc co kéo do một thuỳ dưới phổi bị xẹp. Nghe phổi có tiếng rít, bệnh nhân khó thở nhanh nông và các biểu hiện suy giảm chức năng hô hấp và tâm phế mạn có thể gặp ở những bênh nhân già kết hợp với viêm phế quản mạn và khí phế thũng (COPD) .
- Xquang chuẩn có giá trị gợi ý chẩn đoán: nếu chụp Xquang phổi chuẩn thẳng nghiêng có thể thấy các hình ảnh: nhánh mạch máu rậm rạp do viêm xung quanh phế quản, hình ảnh tổ ong, các hình tròn sáng nhỏ đường kính từ 1-2 cm có mức nước ngang, khu trú ở đáy phổi; có hình ảnh các đường mờ chạy dọc theo các nhánh phế quản .
Thể tích của thuỳ phổi bị giãn phế quản thường nhỏ lại, thuỳ phổi lành thì giãn ra .
Khi có xẹp phổi thuỳ dưới trái thường thấy một bóng mờ tam giác đồng đều ở cạnh tim hoặc sau tim .
Tóm lại Xquang chuẩn có thể có những hình ảnh sau:
+ Mạng mạch máu, trục phế quản dày lên và xít lại ở đáy phổi .
+ Có các ổ tròn sáng từ 1-2 cm đường kính ở đáy phổi kèm theo mức khí-nước (Air- fluid levels ) .
+ Thuỳ phổi có ổ giãn nhỏ lại .
Qua ống thông hoặc qua nội soi phế quản bơm thuốc cản quang tan trong nước vào trong phế quản và chụp. Đây là biện pháp chẩn đoán xác định giãn phế quản. Chụp phế quản cản quang giúp chẩn đoán thể giãn phế quản và độ lan rộng của giãn phế quản. Ngày nay chẩn đoán xác định giãn phế quản dựa vào chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao(HRCT) nên chụp phế quản cản quang ít được sử dụng
Chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao (HRCT) có thể phát hiện ổ giãn phế quản từ trung bình đến nặng .
Chụp HRCT với lớp cắt 1mm có độ nhạy cao để phát hiện và chẩn đoán xác định giãn phế quản. HRCT đánh giá trực tiếp phế quản bị giãn, đánh giá được thành phế quản và nhu mô phổi chung quanh. HRCT đã thay thê vai trò của chụp phế quản cản quang trong chẩn đoán giãn phế quản .
Các triệu chứng của giãn phế quản trên phim chụp HRCT:
- Các đường thở bị giãn, thành dày tạo thành các đương mờ song song (hình ảnh đường ray)
- Các hình mờ vòng nhẫn có đường kính lòng lớn hơn 1,5 lần đường kính các mạch máu đi cùng .
- Hình ảnh phế quản giãn chứa hơi tạo thành các ổ sáng tập trung giống hình tổ ong .
- Hình ảnh phế quản chứa dịch tạo thành các giả mờ , hình mức khí-nước đường kính không quá 2cm .
-Thấy được hình phế quản ở ngoại vi của phổi trong khoảng 1cm tính từ màng phổi thành vào .
- Soi phế quản: được chỉ định để tìm nguyên nhân chít hẹp do u, dị vật; hoặc phát hiện vị trí ho ra máu và điều trị cầm máu .
- Xét nghiệm máu: trong các đợt nhiễm khuẩn bạch cầu thường tăng, N tăng, công thức bạch cầu chuyển trái, tốc độ lắng máu tăng .
- Xét nghiệm chức năng hô hấp: có rối loạn thông khí tắc nghẽn hoặc hỗn hợp .
- Xét nghiệm vi khuẩn đờm hoặc dịch rửa phế quản phế nang có thể thấy vi khuẩn (+)
Bệnh tiến triển mạn tính với các đợt bùng phát nhiễm khuẩn xen kẽ các đợt ổn định, bệnh tiến triển nặng dần không hồi phục . Nếu không điều trị hoặc điều trị không tốt bệnh nặng lên nhanh chóng dẫn đến tâm phế mạn .
- Mưng mủ phổi: dịch mủ ứ đọng ở ổ giãn gây viêm phổi hoặc áp xe hoá .
- Ho ra máu giai dẳng hoặc ho ra máu nặng đe doạ tính mạng, đặc biệt là ở cơ thể suy mòn gầy yếu .
- Suy hô hấp, suy tim phải, thoái hoá dạng tinh bột ở gan thận .
- Phát hiện sớm những bệnh thường kết hợp với giãn phế quản có thể cho phép điều trị sớm hơn và ngăn chặn được sự phát triển của bệnh hoặc giảm được mức độ nặng của bệnh.
- Tăng cường miễn dịch ở trẻ nhỏ chống lại bệnh sởi, ho gà và nhiễm vi rút đường hô hấp .
- Điều trị tốt nhiễm khuẩn phế quản cho trẻ nhỏ và cúm, sởi, ho gà, cải thiện điều kiện sống và dinh dưỡng sẽ giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong của giãn phế quản .
- Sử dụng rộng rãi vacxin cúm, sởi, vacxin đa giá .
- Phát hiện sớm và loại bỏ các dị vật đường thở và những tắc nghẽn phế quản, điều trị tích cực các nhiễm trùng hô hấp sẽ đề phòng được giãn phế quản .
- Điều trị triệt để các bệnh viêm xoang, viêm họng, viêm amidal, vì từ những ổ nhiễm khuẩn này vi khuẩn dễ xâm nhập xuống đường hô hấp dưới và gây viêm phế quản .
- Điều trị triệt để lao phổi như lao sơ nhiễm, lao thâm nhiễm, lao phế quản .
- Điều trị tốt áp xe phổi .
Giãn phế quản là trạng thái bệnh lý của các phế quản bị giãn rộng toàn bộ hay từng phần, các lớp cơ đàn hồi của phế quản bị tổn thương do viêm nhiễm hoặc các tác nhân vật lý gây tắc đường hô hấp.
Đặc điểm chủ yếu của bệnh là ho đờm thật nhiều, 50-100ml/ngày, liên tục, nhất là buổi sáng và dễ ho, dễ khạc khi đổi tư thế. Đàm có nhầy lẫn mủ, có khi chỉ có mủ. Ngộp thở, khó thở, ho ra máu, ngón tay dùi trống.
Theo Đông y, bệnh thuộc phạm trù các chứng bệnh Khái Thấu, Khái Huyết.
Theo Đông y, bệnh phát sinh do 2 nguyên nhân: ngoại nhân và nội nhân.
Ngoại nhân là do cảm phải phong hàn, phong nhiệt, tà nhập vào phế hóa nhiệt, nhiệt đốt tân dịch kết thành đờm lưu tại Phế. Mặt khác cơ thể bệnh nhân vốn Tỳ hư, đờm thấp nội sinh cũng tích tại Phế gây nên ho đờm nhiều. Ngoài ra, nhiệt tích tại Phế lâu ngày gây tổn thương Phế lạc sinh ho ra máu. Bệnh kéo dài không trị khỏi, Tỳ khí hư yếukhông nhiếp được huyết, ho ra máu nặng hơn. Bệnh lâu ngày, chức năng Thận cũng bị ảnh hướng nên xuất hiện khó thở và phù.
Về bệnh lý, cần chú ý 2 mặt đờm và ứ. Người bệnh thường ho nhiều đờm. Đờm nhiều ứ tụ lâu ngày gây trở ngai khí huyết lưu thông sinh ứ huyết, và ứ huyết cũng gây xuất huyết nên trong điều trị các y gia ngày xưa chú ý nhiều đến dùng thuốc hoạt huyết. Cho nên trong quá trình bệnh, 3 trạng thái bệnh lý đan xen nhau làm cho bệnh kéo dài lâu khỏi.
Bệnh bắt đầu thường là ho kéo dài, nhiều đờm, có lúc đờm lẫn mủ, theo sự phát triển của bệnh, ho nặng hơn và đờm nhiều hơn. Dịch đờm để lắng thường chia làm 3 lớp: lớp trên là bọt, lớp giữa là dịch nhầy, lớp dưới là mủ và các tế bào tổ chức hoại tử, có mùi tanh hôi. Phần lớn bệnh nhân khạc ra máu, ít là sợi máu lẫn trong đờm. Bệnh nhân thường ho có cơn, ho nhiều và sáng sớm và lúc thay đổi tư thế. Trạng thái ho đờm có thể nặng lên lúc thay đổi thời tiết hoặc mắc bệnh ngoại cảm. Bệnh nặng có thể kèm theo phổi xơ, phế khí thũng, khó thở, ngón tay (chân) dùi trống.
Triệu chứng lâm sàng: Ho kéo dài, đờm nhiều có mủ (lượng mỗi ngày có thể 60-400ml) để lắng chia 3 lớp (bọt, dịch nhầy, mủ), mùi thối, ho ra máu tái diễn nhiều lần, dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn phổi và đường hô hấp, sốt, sụt cân. Thiếu máu, bệnh lâu ngày có ngón tay dùi trống, dị dạng lồng ngực và có thể gây bệnh tâm Phế mạn.
Giãn phế quản cần phân biệt chẩn đoán với Lao phổi, Viêm phế quản mạn tính, Áp xe phổi, Nang phổi tiên thiên... Chủ yếu biểu hiện khác hình ảnh X quang và mỗi loại bệnh đều có triệu chứng riêng.
Triệu chứng: Ho sốt, đờm nhiều đặc, ho ra máu, khát muốn uống, nước tiểu vàng, táo bón, rêu vàng nhầy, mạch Hoạt Sác.
Pháp trị:
Thanh nhiệt, hóa đờm.
Phương thuốc: Dùng bài Thanh Kim Hóa Đờm Thang gia giảm:
Tang bì | 12 | Hoàng cầm | 12 | Tri mẫu | 12 | ||
Bối mẫu | 12 | Qua lâu | 12 | Bạch linh | 12 | Mạch môn | 12 |
Ngư tinh thảo | 12 | Mao căn | 12 | Chi tử | 10 | Trần bì | 10 |
Cát cánh | 10 | Đông qua nhân | 10 |
Sắc uống
Triệu chứng: Ho đờm ít, tiếng ho nhỏ, trong đờm có sợi máu, miệng khô, họng táo, tinh thần mệt mỏi, lười đỏ sẫm, mạch Hư Tế.
Pháp trị:
Ích khí, dưỡng Phế âm, thanh nhiệt.
Phương thuốc:Dùng bài Sinh mạch tán hợp tả bạch tán gia giảm
Đẳng sâm | 12 | Bạch truật | 12 | Phục linh | 12 | ||
Mạch môn | 12 | Tang bì | 12 | Địa cốt bì | 12 | Tiên hạc thảo | 12 |
Ngẫu tiết | 12 | Qui đầu | 12 | Từ uyển | 10 | A giao | 10 |
Ngũ vị | 4 | Trích thảo | 4 |
Sắc uống
Ngoài 2 thể bệnh chính trên đây lúc bệnh tình ổn định, ho đờm không nhiều, nên dùng Lục Quân Tử Thang để kiện Tỳ, hóa đờm.
- Mục đích là chống nhiễm trùng, chống tăng tiết, tắc nghẽn đường thở và các biến chứng như khái huyết, giảm oxy máu, suy hô hấp, tâm phế mạn .
- Dẫn lưu đờm theo tư thế thích hợp, kết hợp vỗ rung để đờm khạc ra dễ dàng .
- Có thể dùng thuốc làm loãng đờm trong trường hợp khó khạc. Ví dụ cho uống natribengoat, mucomyst, phun mù a-chymotripsin, nước muối ấm...
- Dùng kháng sinh: điều trị tích cực các đợt bội nhiễm, điều trị kháng sinh cho đến khi hết sốt hết khạc đờm mủ .
- Tốt nhất là dùng kháng sinh mạnh, phổ rộng và phối hợp hai loại kháng sinh .
- Điều trị các triệu chứng khác như ho, sốt, điều tri suy hô hấp, suy tim nếu có .
- Điều trị cầm máu bằng các thuốc gây co mạch như glandutrin, hypantin, transamin .
- Truyền máu tươi cùng nhóm những trường hợp ho ra máu nặng .
Nếu ho ra máu tái diễn, ho ra máu nặng ở những bệnh nhân giãn phế quản lan toả có thể điều trị cầm máu bằng gây bít tắc động mạch phế quản. Người ta gây tắc phần thân và các nhánh phân chia của động mạch phế quản bệnh lý bằng cách bơm Spongel và hạt Contour (trộn trong thuốc cản quang pha loãng) qua ống thông chụp mạch vào làm tắc lòng động mạch nhằm loại bỏ các nhánh mạch liên quan tới vùng chảy máu, để lại cuống mạch (> 3cm) để chụp kiểm tra và tiến hành lại lần sau nếu tái phát ho ra máu
Được đặt ra khi giãn phế quản khu trú có ho ra máu nặng đe doạ đến tính mạng bệnh nhận, hoặc ho ra máu giai dẳng ảnh hưởng đến sức khoẻ và lao động .
Phẫu thuật cắt bỏ phân thuỳ phổi hoặc thuỳ phổi bị giãn phế quản là phương pháp điều trị hữu hiệu nhất .
Bố tôi bị lao phổi đã điều trị khỏi cách đây 10 năm. Thời gian gần đây bố tôi hay bị ho, khó thở, mệt mỏi.
Lưu ý khi sử dụng thuốc giãn phế quản
Năm 1940, theophyllin được phép đưa vào sử dụng. Năm 1947, isoproterenol, một chất chủ vận beta mạnh được cấp phép sử dụng và trong 25 năm tiếp đó,
Phát hiện và điều trị sớm giãn phế quản
Giãn phế quản là một bệnh bẩm sinh hay mắc phải, tổn thương gây giãn thường xuyên không hồi phục của một hay nhiều phế quản lớn, có hủy hoại thành phế quản.
Giãn phế quản điều trị thế nào?
Tôi bị ho nhiều có lẫn máu, đi khám bác sĩ nói tôi bị giãn phế quản. Xin hỏi quý báo, bệnh của tôi phải điều trị thế nào?
Giãn phế quản: phòng ngừa được không?
Vào mùa lạnh thì có một bệnh đường hô hấp rất thường gặp là giãn phế quản (GPQ). Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.
Phòng tránh bùng phát bệnh giãn phế quản
Giãn phế quản (GPQ) là bệnh hô hấp thường gặp, nhất là trong mùa lạnh, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm. Đây là sự giãn không hồi phục của cây phế quản. Có thể giãn ở phế quản lớn trong khi phế quản nhỏ vẫn bình thường hoặc giãn ở phế quản nhỏ trong khi phế quản lớn bình thường
Bệnh giãn phế quản: Nguyên nhân và cách chữa
Giãn phế quản là sự giãn liên tục, vĩnh viễn không hồi phục của một hoặc nhiều phế quản có đường kính trên 2mm, do sự phá hủy tổ chức của thành phế quản. Thường phế quản bị giãn từ thế hệ thứ 3 đến thứ 8 hoặc 10.