Tâm phế mạn là một bệnh toàn thân mà biểu hiện sự rối loạn chức nặng tim phổi là chính, tỷ lệ phát bệnh cao ở tuổi trung niên và người lớn tuổi (trên 40 tuổi) và 80 – 90%) là do viêm phế quản mạn tính, giãn phế quản, phế khí thũng và hen phế quản. Bệnh lúc cấp diễn thường có các triệu chứng: khó thở, thở gấp, hồi hộp, môi lưỡi tím, nổi tĩnh mạch cổ, phù mắt cá chân. Thời gian từ khi mắc bệnh phổi đến lúc xuất hiện tâm phế mạn khoảng từ 3 đến 10 năm.
Động mạch phổi có lưu lượng cao, áp lực dòng chảy thấp, sức cản mạch máu thấp với chức năng cung cấp máu cho trao đổi khí và có 3 đặc điểm:
- Thành mỏng với trương lực cơ lúc nghỉ thấp,
- Ở người lớn, lúc nghỉ có sự điều chỉnh nhỏ vận mạch phổi nhờ hệ thông thần kinh tự động,
- Có nhiều tiểu động mạch và mao mạch phế nang không tham gia vận chuyển máu lúc nghỉ và có thể hoạt động lại khi cần thiết để mở rộng mạng lưới mao mạch phổi và nhờ vậy làm giảm sức cản mạch máu phổi.
Bình thường, áp lực động mạch phổi trung bình khoảng 12 - 17 mmHg, khi áp lực động mạch phổi lúc nghỉ lớn hơn 20 mmHg thì cần phải nghĩ tới có tăng áp động mạch phổi. Sức cản của hệ mạch máu phổi tăng và TAĐMP là những cơ chế bệnh sinh chính trong tất cả các trường hợp tâm phế mãn.
+Suy hô hấp từng phần gây thiếu ôxy máu, thiếu ôxy tổ chức, làm co thắt các tiểu động mạch phổi và từ đó dẫn đến tăng áp lực động mạch phổi. Nguyên nhân quan trọng nhất gây co các tiểu động mạch phổi là thiếu ôxy ở các phế nang. Cơ chế co mạch do thiếu ôxy tổ chức còn chưa được rõ. Người ta cho là có thể có một vài hoạt chất trung gian được phóng thích từ các tế bào hiệu ứng và làm co mạch hoặc hiện tượng co mạch là một đáp ứng trực tiếp của các cơ trơn mạch máu phổi đối với tình trạng giảm ôxy tổ chức.
+ Mức độ co mạch do giảm ôxy tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào PaO2 phế nang và khi PaO2 phế nang < 55 mmHg thì áp lực động mạch phổi tăng rất nhanh. Khi áp lực động mạch phổi lớn hơn 40 mmHg thì độ bão hoà ôxy động mạch có thể thấp hơn 75%.
+Suy hô hấp toàn bộ sẽ làm ứ trệ CO2 và gây toan hô hấp. Toan máu làm co thắt các tĩnh mạch phổi và phối hợp với co thắt tiểu động mạch phổi do thiếu ôxy tổ chức sẽ làm tăng áp lực động mạch phổi.Áp lực ĐMP tăng
+ Một số cơ chế khác làm tăng áp lực động mạch phổi như tăng lưu lượng tim do tăng chuyển hoá, hoạt động gắng sức, nhiễm khuẩn phổi cấp tính...; Tăng độ quánh của máu: đa hồng cầu thứ phát; Nhịp tim nhanh do thiếu ôxy hoặc do suy tim...
Tăng áp lực động mạch phổi là trở lực chính làm tăng công của tim phải. Tình trạng thiếu ôxy, tăng thể tích, tăng cung lượng tim cũng góp phần làm tăng công của tim. Tăng công của tim kéo dài làm phì đại thất phải, sau đó giãn thất phải và cuối cùng là suy tim phải.
Các nguyên nhân của tâm phế mãn phân loại theo cơ chế tăng áp động mạch phổi.
+ Co mạch do giảm ôxy máu:
a. Viêm phế quản mạn và khí phế thũng, xơ nang phổi.
b. Giảm thông khí phổi mạn.
- Béo phì.
- Khó thở khi ngủ.
- Bệnh thần kinh cơ.
- Rối loạn chức năng thành ngực. c. Bệnh ốm yếu mạn tính vùng núi (bệnh Monge).
+Tắc nghẽn hệ thống mạch máu phổi:
a. Thuyên tắc động mạch phổi, nhiễm trứng ký sinh trùng, tắc nghẽn mạch máu phổi do u.
b. Tăng áp động mạch phổi nguyên phát.
c. Bệnh tắc tĩnh mạch phổi / Giãn mao mạch phổi.
d. Bệnh hồng cầu hình liềm / Tắc nghẽn tuỷ.
e. Viêm trung thất xơ hoá, u trung thất.
f. Viêm mạch máu phổi do bệnh hệ thống:
- Bệnh collagen mạch.
- Bệnh phổi do thuốc.
- Viêm hoại tử và nút động mạch.
Bệnh nhu mô phổi có mất diện tích tưới máu:
a. Tràn khí hình bọng, bệnh thiếu anpha 1 antiproteinase.
b. Giãn phế quản lan toả, xơ nang phổi.
c. Bệnh mô kẽ lan toả.
- Bệnh bụi phổi.
- Sarcoid, bệnh xơ phổi tự phát, chứng mô bào huyết X.
- Lao phổi, nhiễm trùng nấm mạn tính.
- Hội chứng suy giảm hô hấp ở người lớn.
- Bệnh collagen mạch máu (bệnh phổi tự miễn).
- Viêm phổi quá mẫn cảm.
Chẩn đoán xác định tâm phế mãn dựa vào:
- Tiền sử mắc bệnh phổi mạn tính hoặc bệnh của hệ thống cơ xương ở lồng ngực.
- Hội chứng suy tim phải.
- Điện tâm đồ: P phế, dày thất phải, tăng gánh thất phải.
- Phim X quang lồng ngực: bóng tim to, cung động mạch phổi nổi, các động mạch phổi phải, trái giãn.
- Thăm dò huyết động (siêu âm tim hoặc thông tim phải): áp lực động mạch phổi tăng.
Triệu chứng cơ năng +Biểu hiện lâm sàng của tâm phế mạn thường bị che dấu bởi các triệu chứng của bệnh phổi thực thể đã có sẵn. Cần phải xác định loại bệnh và mức độ nặng của các bệnh phổi sau đó mới xem xét bệnh nhân có bị tâm phế mạn không.
+Bệnh nhân có thể có những đợt phù chân, đau ngực không điển hình, khó thở khi gắng sức, tím ở ngoại vi liên quan đến gắng sức.
Đau ngực có thể do lồng ngực bị căng phồng (đau cơ xương) hoặc có thể liên quan đến thiếu máu cơ tim thất phải. b. Ho và cảm giác dễ bị mệt mỏi là các triệu chứng phổ biến.
c. Một số bệnh nhân có biểu hiện giảm thông khí ban đêm, khó thở khi ngủ và có thể có thay đổi nhân cách cá nhân, tăng huyết áp nhẹ và đau đầu.
d. Thở ngắn là triệu chứng luôn có ở các bệnh nhân tâm phế mạn. Cần phải xem xét mức độ hoạt động nào làm cho bệnh nhân khó thở vì bệnh nhân thường giảm hoạt động để tránh khó thở.
e. Đôi khi có đau tức ở vùng bụng do ứ máu ở gan.
+ Hai phổi căng phồng có tính chất mạn tính nên lồng ngực thờng biến dạng “hình thùng” và gõ ở vùng ngực hai bên đều thấy rất vang. Tiếng tim thường hơi mờ do hiện tượng giãn phế nang của phổi.
+ Các dấu hiệu sớm nhất là các dấu hiệu có liên quan đến tăng áp lực động mạch phổi kéo dài.
a. Dấu hiệu nhạy nhất của tăng áp động mạch phổi là thành phần phổi của tiếng T2 vang mạnh, có thể nghe được ở vị trí ổ van động mạch phổi và ở vùng thất phải trên xương ức.
b. Khi áp lực động mạch phổi tăng rất cao, có thể có tiếng thổi tâm trương ở ổ van động mạch phổi và tiếng thổi tâm thu ở ổ van ba lá do hở phổi và hở van ba lá, đồng thời cũng có thể nghe thấy tiếng tống máu tâm thu và tiếng ngựa phi T3 thất phải.
+Khi đã có suy tim phải bệnh nhân thường có tim to, tĩnh mạch cổ nổi, gan to và phù ở ngoại biên. Dấu hiệu tĩnh mạch cổ nổi cả trong thì hít vào và thở ra là dấu hiệu chỉ điểm chắc chắn có suy tim phải. Trong các trường hợp suy tim phải nặng, bệnh nhân có thể có phù toàn thân và tràn dịch cả màng phổi, màng tim, cổ chướng…
+Các đầu chi có thể ấm do giãn mạch ngoại biên vì tăng CO2 máu; hoặc cũng có thể tím do lưu lượng máu thấp hoặc giảm ôxy máu.
+ Những bệnh nhân có tâm phế mãn lâu có thể bị tím đen như người đen, mắt lồi và đỏ do tăng sinh của các mạch máu màng tiếp hợp trông như mắt ếch và thờng có ngón tay, ngón chân dùi trống
+ Điện tâm đồ của bệnh nhân tâm phế mãn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như áp lực động mạch phổi, sự quay và thay đổi vị trí của tim do hai phổi căng phồng, thay đổi khí máu động mạch, thiếu máu cơ tim và các rối loạn chuyển hoá. Vì vậy giá trị của điện tâm đồ trong chẩn đoán bệnh tâm phế mạn còn phụ thuộc vào bệnh phổi nền và các biến chứng của nó.
+ Hình thái phì đại thất phải thường gặp ở những trường hợp có tắc hẹp hệ mạch máu phổi. Hai phần ba bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có phì đại thất phải khi mổ tử thi nhưng trên điện tâm đồ lại không có hình ảnh của thất phải phì đại. Khi không có hình ảnh phì đại thất phải điển hình thì việc chẩn đoán phải dựa vào một loạt các dấu hiệu điện tâm đồ nhưQrS ở V5, V6; qR ở aVR; và P “phế”. Sóng P cao nhọn ở DII và aVF chứng tỏ dày nhĩ phải. Bloc nhánh phải gặp ở 15% bệnh nhân tâm phế mãn. .
+Rối loạn nhịp không phải luôn có ở bệnh nhân tâm phế mãn không biến chứng, nhưng khi có rối loạn nhịp thì hầu như à rối loạn nhịp trên thất và chứng tỏ có bất thường về khí máu, hạ kali máu hoặc dùng quá liều các thuốc như Digitalis, Theophyllin và các thuốc kích thích b giao cảm. Cơn tim nhanh nhĩ đa ổ thường gặp ở bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và điều trị tốt nhất là kiểm soát bệnh phổi nền hơn là dùng các thuốc chống loạn nhịp. Bệnh nhân tâm phế mãn khi đã rối loạn nhịp thất thường có tiên lượng xấu và tỷ lệ tử vong cao.
+ Phần lớn các bệnh gây ra tâm phế mãn đều có hình ảnh hai trường phổi sáng hơn bình thường trên phim X quang lồng ngực và vì vậy việc chẩn đoán tăng áp động mạch phổi trên phim sẽ gặp khó khăn hơn.
+ Thất phải giãn có thể khó xác định được với bóng tim trên phim thường nằm thẳng đứng do khí phế thũng và so sánh với các phim cũ có thể giúp ích cho việc chẩn đoán. Hầu hết bệnh nhân tâm phế mãn đều có thất phải và động mạch phổi giãn to, nhưng tăng áp động mạch phổi thường có trước giãn thất phải.
+Một chỉ điểm về tăng áp động mạch phổi là đo đường kính của động mạch phổi phải và trái. Động mạch phổi phải giãn khi có đường kính ngang > 16mm và đối với động mạch phổi trái là > 18mm. Dấu hiệu này gặp ở 43 - 46% bệnh nhân đã biết có tăng áp động mạch phổi, nhưng độ nhạy và độ đặc hiệu thật sự của phép đo này vẫn chưa được xác định.
Rất hữu ích ở bệnh nhân bị tâm phế mãn.
+Siêu âm tim kiểu TM cho phép xác định thất phải giãn và cũng có thể xác định được tăng áp động mạch phổi qua hình thái vận động của van động mạch phổi (mất sóng a).
+ Siêu âm tim 2 bình diện có thể nhìn thấy được toàn bộ buồng thất phải, đo được độ dày thành thất cũng như xác định được những thay đổi của vách liên thất do phì đại thất phải. Vì thất phải có hình dạng không đối xứng nên việc đo thể tích thất phải rất khó. Tăng gánh áp lực thất phải thường được xác định bằng phì đại thành trước thất phải và buồng thất phải giãn. Trường hợp tâm phế mãn nặng có thể thấy phì đại vách liên thất và di động nghịch thường của vách vào thất trái. Tăng gánh thể tích thất phải thường làm giãn buồng thất và có vách liên thất di động nghịch thường.
+Siêu âm Doppler tim: là phương pháp thăm dò huyết động không chảy máu tiện dụng để xác định tăng áp động mạch phổi và cung lượng tim. Phương pháp này khá chuẩn xác khi áp lực động mạch phổi > 30mmHg và kém chuẩn xác hơn đối với áp lực động mạch phổi thấp hơn mức này. Siêu âm Doppler cũng hữu ích để theo dõi hiệu quả lâu dài của một trị liệu bằng thuốc.
+ Thông tim phải chỉ có giá trị để xác định áp lực động mạch phổi, áp lực động mạch phổi bít và cung lượng tim. Bệnh nhân tâm phế mãn có áp lực động mạch phổi trung bình cao hơn nhiều so với áp lực động mạch phổi bít, không giống với suy tim trái hay hẹp van hai lá chỉ có sự chênh lệch nhỏ giữa áp lực động mạch phổi trung bình và áp lực phổi bít.
+ Áp lực động mạch phổi trung bình rất cao trong các trường hợp bệnh mạch máu phổi tắc nghẽn nhưng chỉ tăng nhẹ ở các bệnh mô phổi kẽ. Trong giai đoạn đầu của bệnh tâm phế mãn, áp lực động mạch phổi chỉ từ 25 - 30 mmHg và khi đã có suy tim phải thường tăng trên 40mmHg.
+ Giai đoạn đầu: suy hô hấp từng phần, áp suất ôxy máu động mạch (PaO2) thuờng giảm, nhất là khi gắng sức; áp suất CO2 động mạch (PaCO2) không tăng, có khi còn giảm do tăng thông khí; độ bão hoà ôxy máu động mạch (SaO2) giảm nhẹ; pH máu còn bình thuờng.
+Giai đoạn suy hô hấp toàn bộ: PaO2 giảm nhiều < 70mmHg; PaCO2 tăng cao 50 - 80mmHg; SaO2 giảm <75%; pH giảm dưới 7,2.
Thường thấy biểu hiện của đa hồng cầu và tăng hematocrit.
+ Giai đoạn sớm: Chỉ có bệnh phổi mạn tính với những đợt suy hô hấp kịch phát, có tăng áp động mạch phổi, cần phát hiện sớm để đề phòng.
+Giai đoạn tăng áp động mạch phổi: Thường lâm sàng không thể phát hiện được, thăm dò bằng thông tim phải hoặc siêu âm Doppler tim thì có tăng áp động mạch phổi, có thể điều trị tốt và trở về ổn định.
+ Giai đoạn suy tim phải còn hồi phục: có biểu hiện tăng áp động mạch phổi và suy tim phải, điều trị có kết quả.
+ Giai đoạn suy tim phải không hồi phục: điều trị không có kết quả.
1. Suy tim toàn bộ do bệnh van tim mắc phải (hẹp van hai lá), bệnh tim bẩm sinh, bệnh cơ tim.
2. Suy tim do suy vành, nhồi máu cơ tim: cơn đau thắt ngực điển hình, biến đổi đoạn ST -T và các men tim tăng.
3. Hội chứng Pick: Viêm màng ngoài tim co thắt.
4. Tim người già: nguời lớn tuổi, không có tiền sử bị bệnh phổi mạn tính.
Bệnh phổi mạn tính tiến triển từ từ, chậm chạp, dần làm tổn thương đến chức năng hô hấp của phổi dẫn đến suy giảm chức năng phổi từng phần, rồi suy giảm chức năng phổi toàn bộ và cuối cùng là tăng áp động mạch phổi, rồi suy tim phải.
Sự tiến triển của bệnh phụ thuộc vào người bệnh có được phát hiện bệnh sớm, được điều trị và theo dõi thường xuyên hay không. Nhìn chung, những bệnh phổi mạn tính gây suy tim phải có tiến triển nhanh nếu những đợt kịch phát xảy ra nhiều lần. Ngược lại, khi bệnh nhân được theo dõi và điều trị tốt thì có thể ổn định được từ 5 đến 20 năm và hơn nữa.Tiên lượng bệnh phụ thuộc chủ yếu vào việc kiểm soát bệnh phổi nền hơn là điều trị tăng áp động mạch phổi. Trong nhóm bệnh phổi tắc nghẽn, viêm phế quản mạn tính tiến triển nhanh hơn, bệnh hen phế quản tiến triển chậm hơn nhất là thể hen dị ứng. Trong nhóm bệnh phổi hạn chế đặc biệt là các bệnh có liên quan đến tính chất cơ học của hô hấp nhưgù vẹo, dị dạng lồng ngực nếu không bị bội nhiễm phổi thì có thể sống lâu mà không có biểu hiện tâm phế mãn. Bệnh tắc mạch máu phổi tiên lượng xấu hơn.
Tâm phế mạn là bệnh tại phổi ,vùng ngực hoặc các bệnh biến của huyết quản mãn tính làm cho tăng cao áp lực tuần hoàn phổi, dẫn đến động mạch phổi áp lực tăng cao và tâm thất phải phì đại .
Theo Y học cổ truyền, bệnh thuộc phạm trù chứng Đàm Ẩm, Suyễn Chứng, Thủy Thủng, Tâm Quí. Bản bệnh đa phần là do phế tỳ thận hư ngoại tà xâm nhập vào bên trong đàm ứ kết hợp dẫn đến bênh cơ do gốc hư tiêu thực.Đông y nhận định chủ yếu là do tà của thuỷ ẩm dẫn đến phát bệnh tại tâm phế. Bản bệnh bệnh biến tại phế nhưng có liên hệ mật thiết với tỳ thận đồng thời ảnh hưởng đến tâm. Phế là một trong năm tạng phủ nằm ở phía trên chủ về bì mao tuyên phát túc giáng nếu ngoại tà xâm nhập vào lâu ngày không khỏi dẫn đến làm tổn thương phế khí làm giảm công năng tuyên phát túc giáng không thể thông điều thuỷ đạo thuỷ thấp đình trệ mà dẫn đến thuỷ ẩm thuỷ ẩm đình lại ở phía dưới tâm xuất hiện tim đập nhanh, môi tím, khí đoan ra mồ hôi, thuỷ thủng mà theo y học hiện đại gọi là tâm lực suy kiệt.
Các nguyên nhân phát bệnh chủ yếu như hư , tà , đàm , ứ, ẩm tồn tại triền miên bên trong cơ thể. Nhiệt độc thịnh lên thiêu đốt tân dịch thành đàm thiêu đốt làm tổn thương âm huyết nên dẫn đên ứ huyết. Đàm ẩm dẫn đến phế khí uất trệ đàm ứ hỗ kết uất lại hoá nhiệt tạo thành nhiệt độc; ứ huyết trở trệ khí cơ bất lợi tân dịch đình trệ tạo thành đàm ẩm. Trên lâm sàng giai đoạn cấp đa phần thuộc về thực chứng trị tiêu, giai đoạn mãn tính nguyên tắc điều trị bản bệnh được phân loại biện chứng luận trị theo 9 thể pháp trị thường dùng sơ can tán tà, thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hoá ứ, tuyên phế hành thuỷ ...chủ yếu là điều hoà âm dương khí huyết của tạng phủ bị hư tổn tuân theo nguyên tắc thuận hoà âm dương.
Sợ gió sợ lạnh phát nhiệt nhẹ không ra mồ hôi đầu đau chân tay đau nhức sổ mũi chảy nước mũi họng ngứa ho đờm màu trắng rêu lưỡi trắng mỏng mạch phù khẩn .
Cơ thể suy nhược phong hàn tà thừa cơ xâm nhập vào bên trong cơ thể vệ dương bị uất tấu lý nôi bế phế khí mất tuyên giáng
Tuyên phế tán hàn trừ đàm bình xuyễn
Dùng bài tiểu thanh long thang gia giảm:
Ma hoàng 12g; quế chi 6g; bán hạ 12; tế tân 4g; bạch thược 12g; can khương 12g; chích cam thảo 6g; ngũ vị tử10g
Sốt ho ngực sươn chướng mãn hơi thở thô lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng dính mạch hoạt sác.
Ẩm thực bất tiết ăn thức ăn lạnh tỳ mất kiện vận thuỷ cốc không trở về chính hoá mà tạo thành thấp sinh ra đàm đàm uất hoá nhiệt
Thanh nhiệt hoá đàm
Dùng bài tang bạch bì thang gia giảm :
Tang bạch bì 10g tô tử 10g bán hạ 10g hạnh nhân 10g bối mẫu 10g sơn chi 10g hoàng cầm 10g hoàng liên 4g sinh khương 3 lát
Ho ngũ canh tiết tả tay chân lạnh bụng lạnh chướng mãn đau lưng đau gối mỏi tiểu tiên không thông lợi lưỡi đạm to có vết hằn răng mạch trầm tế vô lực.
Do bênh lâu ngày làm cho cơ thể suy nhược thấp tà làm trở trệ tỳ mất kiện vận làm cho thân dương suy kiệt
Ôn dương lợi thuỷ
Dùng bài chân vũ thang hợp với linh quế truật cam thảo thang gia giảm :
Phục linh 15g quế chi 6g cam thảo 6g bạch truật 12g đẳng sâm 15g bạch thược 12g
Ho suyễn tức thở, thở hổn hển, bứt dứt, ngực đầy, đàm vàng, dính đặc; người nóng sợ rét, có mồ hôi không nhiều, tiểu vàng, phân khô, miệng khát, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc nhớt, rìa lưỡi đỏ.
tỳ hư không vận hoá được thuỷ thấp thấp nhiệt ứ trệ lại thành đàm lưu lại trong tâm và não dẫn đến tâm không yên người bồi hồi bứt rứt ngực đầy ho suyễn khó thở
Địch đàm khai khiếu tỉnh thần thông tiện
Dùng bài địch đàm thang gia giảm:
Nhân sâm 8g trúc nhự 10g thạch xương bồ 10g cam thảo 7g đởm nam tinh 10g chỉ thực 10g quất hồng bì 16g phục linh 16g bán hạ 20g
Bệnh nhân bứt rứt không yên, co giật hoặc buồn ngủ lơ mơ, hôn mê, ho sốt cao hoa mắt chóng mặt buồn nôn chất lưỡi khô, đỏ thẫm, mạch Tế Sác.
Can thân âm dich tinh huyết bị hao tổn huyết ko nuôi dưỡng được cân can âm không khống chế được can dương can dương hoá phong nhiệt làm nhiễu động.
Thanh nhiệt khoát đàm khai khiếu thông tiện
Dùng bài linh dương câu đằng thang gia giảm :
Sơn dương giác 20g bối mẫu 12g sinh đụa 12 cam thảo 6g câu đằng 15g bạch thược 12g phục linh12g phục thần 15g cúc hoa 12g
Thở nông, khó thở liên tục, bệnh nặng bệnh nhân phải há miệng thở so vai, không thể nằm thở, ho đàm trắng như bọt, khạc nhổ khó, ngực bí, tinh thần hoảng hốt, mồ hôi nhớt, lưỡi nhạt hoặc nhạt tím tối.
Bổ phế nạp thận ích khí kiện tỳ
Dùng bài bổ phế thang gia giảm :
Hoàng kỳ 15g, xuyên khung 15g, đan sâm 15g, phục linh 12g, hoàng cầm 12g, trúc nhự 12g, bạch truật 9g, phòng phong 12g, bán hạ 9g, đào nhân 9g, cam thảo 3g.
Đau tức ngực sườn ho,phát sốt, bì phu có điểm bất thường sờ dính có khối u cục hoặc xuất huyết, tim đập nhanh miệng khô đắng lưỡi ,tiện kết lưỡi đỏ tối rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền sác.
Thanh nhiệt lương huyết hoá ứ chỉ huyết
Dùng bài thanh nhiệt địa hoàng thang gia giảm:
Thục địa 16g sơn dược16g sơn thù 16g phục linh 10g trần bì 10gcam thảo 6gkim ngân hoa12g sài hồ 12gđương quy 12g
Các chứng âm hàn thịnh dương khí suy, chân tay quyết lạnh, bụng đau thổ tả, không khát, đầu ngón tay và môi tím tái, lưỡi nhợt, rêu trắng hoạt, mạch trầm, trì vô lực, hoặc không bắt được mạch.
Ích khí dương âm hồi dương cứu nghịch
Dùng bài sinh mạch ẩm gia sâm phụ thang gia giảm Nhân sâm 12g mạch môn 12g ngũ vị tử 12g phụ tử 12g
Ngực sườn đầy tức khí đoản hoa mắt chóng mặt tay chân vô lực người bệnh lười nói chuyện đau cự án đau như châm chích, lưỡi đạm tối mạch trầm khẩn.
Cố bản ích khí hoạt huyết thông mạch
Dùng bài ngọc bình phong tán hợp đào hồng tứ vật thang gia giảm :
Hoàng kỳ 24g phòng phong 8g bạch truật 16g đào nhân 16g hồng hoa 10g , xuyên khung 10g đương quy 10g thục địa 10g bạch thược 12g
Thái tử sâm, tử đan sâm tô tử , tử uyển ,phục linh, bạch truật, tử thạch anh ,tử cẩu kỉ, hoàng kỳ mỗi thứ 20g uống liên tục trong vòng 3 tháng mỗi ngày chia ra làm 2-3 lần . Bản phương trên nền cơ bản ( kim quỹ yếu lược ) linh quế truật cam thang hợp ( thái bình thánh huệ kinh) cẩu kỳ tử tán kết hợp kinh nghiệm điều trị tâm phế mãn trên lâm sàng mà thành. Sử dụng phương thuốc điều trị cho bệnh nhân tâm phế mãn thời kì đầu trên 32 BN có hiệu quả rõ rệt 21 BN chuyển biến tốt 9BN không có hiệu quả 2 BN kết hợp so sánh với bn điều trị tây y thông thường trên 18BN ,kết hợp điều trị đông tây y mang lại hiệu quả cao chiếm tỉ lệ 93.7%, chỉ điều trị bằng đông y 76.3%.
Kim ngân hoa 15g liên kiều 15g hoàng cầm 12g đẳng sâm 12g tri mẫu 10g hạnh nhân 10g phục linh 12g xuyên bối mẫu 10g trần bì 10g tử uyển 10g khoản đông hoa 10g xuyên khung 10g sắc uông mỗi ngày một thang mỗi ngày uống 3 lần mỗi lần 150ml . Nếu bệnh nhân phong hàn phạm phế gia ma hoàng quế chi kinh giới nếu đàm nhiệt nhiễu phế gia thạch cao thang hoặc tiểu thanh long thang. Trên lâm sàng sử dụng bài thuốc kết hợp điều trị tây y trên 23 BN trị khỏi 16 BN có hiệu quả rõ rệt 6BN không có hiệu quả 1 BN. Sử dụng đông tây y kết hợp chiếm tỉ lệ 95,7% chỉ dùng đông y chiếm 73,8%.
Đình lịch phụ tử thang :
Đình lịch tư 30g ngũ vị tư 20g ích mẫu thảo 15g phục linh25g bạch truật 20g can khương 10g xích thược 15g bạch phụ tử 15g . Sắc uống ngày 1 thang ngay 3 lần mỗi lần 300 ml . Dùng bài thuốc này cho bệnh nhân suy kiệt hô hấp tâm lực suy kiệt trên 40 BN trị khỏi 16 BN có chuyển biến tốt 21BN không có kết quả 3BN kết hợp điều trị tây y trên 25 BN tổ kết hợp điều trị đông tây y chiếm tỉ lệ 92,5% tổ chỉ điều trị bằng đông y chiếm 62,5%.
Tâm phế mạn là một bệnh tim phổi mạn tính do bệnh ở phổi (viêm phế quản mạn, hen phế quản, giãn phế quản, lao phối, bụi phổi...) hoặc bệnh ở lồng ngực (các dị dạng lồng ngực: gù vẹo, xơ màng phổi, dày dính màng phổi...) gây trở ngại cho tuần hoàn phổi, áp lực động mạch phổi tăng, tâm thất phải dày lên, to ra và dẫn đến suy tim phải.
Tâm phế mạn là một bệnh toàn thân mà biểu hiện sự rối loạn chức nặng tim phổi là chính, tỷ lệ phát bệnh cao ở tuổi trung niên và người lớn tuổi (trên 40 tuổi) và 80 – 90%) là do viêm phế quản mạn tính, giãn phế quản, phế khí thũng và hen phế quản. Bệnh lúc cấp diễn thường có các triệu chứng: khó thở, thở gấp, hồi hộp, môi lưỡi tím, nổi tĩnh mạch cổ, phù mắt cá chân. Thời gian từ khi mắc bệnh phổi đến lúc xuất hiện tâm phế mạn khoảng từ 3 đến 10 năm.
Theo Y học cổ truyền, bệnh thuộc phạm trù chứng Đàm Ẩm, Suyễn Chứng, Thủy Thủng, Tâm Quí. Có liên quan đến 4 tạng: Tâm, Phế, Tỳ, Thận.
Tham khảo thêm chứng ‘Phế Nguyên Tính Tâm Tạng Bệnh’ (Bệnh tim do phổi).
Chủ yếu dựa vào:
l) Tiền sử mắc bệnh mạn tính phổi và lồng ngực như viêm phế quản mãn tính, biến chứng phế khí thũng, lao phổi nặng, hen phế quản, giãn phế quản, viêm cột sống dạng phong thấp, viêm dính màng phổi rộng...
2) Khó thở, tím tái: có thể loại trừ các nguyên nhân khác.
3) Tim đập rõ dưới mỏm ức, tiếng thổi tâm thu ở ổ động mạch phổi. Tiếng thứ 2 vang mạnh ở ổ động mạch phổi, nhìn thấy tim đập mạnh ở khoảng liên sườn 2 - 3 bờ trái xương ức.
4) Gan to ấn đau, nổi tĩnh mạch cổ.
5) Tăng áp lực tĩnh mạch.
6) Tiền sử có tâm phế bệnh hoặc suy tim phải.
7) Kiểm tra hóa lý:
a) Hồng cầu và huyết sắc tố tăng nhiều, độ bão hòa oxy máu động mạch thấp, phân áp CO2 và dự trữ kiềm tăng. Trường hợp suy tim có Protein niệu nhẹ, nước tiểu có trụ niệu, hồng bạch cầu, thời kỳ cuối men SGOT tăng cao, NPN tăng, rối loạn cân bằng kiềm toan.
b) Điện tâm đồ : Điện áp thấp, hình ảnh sóng P phế, trục lệch phải trên 900, dày thất phải, blốc nhánh phải không hoàn toàn.
c) X quang: Chụp phát hiện hình ảnh của bệnh phổi và lồng ngực, đoạn động mạch phổi phình, thất phải và nhĩ phải to.
Có thể chia mấy thể bệnh và điều trị như sau:
Triệu chứng: Ho nhiều đờm, hơi thở ngắn, khó thở tăng khi lao động, sợ gió, ra mồ hôi, mệt mỏi, chất lưỡi nhạt hoặc tía, mạch Tế hoặc Kết Đại.
Điều trị: Ôn phế, hóa đàm, giáng khí, bình suyễn.
Phương thuốc: Dùng bài Linh Quế Truật Cam Thang hợp với Tô Tử Giáng Khí Thang gia giảm:
Bạch linh | 15 | Bạch truật | 12 | Tô tử | 12 | ||
Bán hạ | 12 | Trần bì | 12 | Qui đầu | 12 | Tiền hồ | 12 |
Quế chi | 8 | Hậu phác | 8 | Cam thảo | 4 |
Mệt nhiều, khó thở, ra mồ hôi nhiều thêm Đảng sâm, Hoàng Kỳ, để ích khí, cố biểu, bỏ Hậu phác, Tiền hồ. Trường hợp mặt môi xanh tím thêm Hồng hoa, Xích thược, Đan sâm để hoạt huyết hóa ứ. Sốt, miệng khát, khó thở, ngực tức, đờm vàng đặc, dùng bài ‘Ma Hạnh Thạch Cam Thang’ thêm Bồ công anh, Ngư tinh thảo, Kim ngân hoa để thanh phế, hóa đờm, bình suyễn.
Triệu chứng: Sắc mặt tối, chân tay lạnh, toàn thân phù, chân nặng, tiểu ít, hồi hộp, khó thở, không nằm ngửa được, thân lưỡi bệu, nhạt, rêu hoạt, nhớt, mạch Trầm.
Điều trị: Ôn dương, lợi thủy, kiện tỳ, hóa đàm.
Phương thuốc: Dùng bài Chân Vũ Thang hợp với Ngũ Linh Tán gia giảm:
Phụ tử | 12 | Can khương | 6 | Bạch linh | 15 | ||
Bạch thược | 15 | Trạch tả | 15 | Trư linh | 15 | Sa tiền | 15 |
Bạch truật | 12 | Trần bì | 12 | Bán hạ | 12 | Quế chi | 8 |
Sắc uống.
Trường hợp khí hư nặng, thêm Đảng sâm, Hoàng kỳ để ích khí, hành thủy.
Chân lạnh, mạch Vi, ra mồ hôi, dùng ‘Sâm Phụ Long Mẫu Thang’ để hồi dương cứu nghịch.
Triệu chứng: Bệnh nhân bứt rứt không yên, co giật hoặc buồn ngủ lơ mơ, hôn mê, chất lưỡi khô, đỏ thẫm, mạch Tế Sác.
Phép trị: Hóa đờm, khai khiếu, bình can, tức phong.
Phương thuốc: Dùng ‘Chí Bảo Đơn’ (thành phẩm) ngày uống 1 viên chia 2 lần uống. Hoặc ‘An Cung Ngưu Hoàng Hoàn’ (thành phẩm), uống1 viên .
Thuốc thang dùng bài ‘Linh Dương Câu Đằng Thang gia giảm’:
Sơn dương giác | 40-80 | Bối mẫu | 12 | Sinh địa | 45 | ||
Câu đằng | 15 | Phục thần | 15 | Cúc hoa | 12 | Bạch thược | 12 |
Trúc nhự | 12 | Cam thảo | 4 |
Sắc uống, Câu đằng (cho vào sau)
+ Rất quan trọng, có thể cho thở ôxy bằng ống thông qua mũi, bóng ôxy, thở ôxy trong vòng kín. Ôxy nên dẫn qua bình nước để làm ẩm, không cho thở ôxy 100% trong trường hợp suy hô hấp toàn bộ có tăng CO2vì như vậy dễ ức chế trung tâm hô hấp. Sự tăng áp lực ôxy trong máu cải thiện tình trạng thiếu ôxy tổ chức sẽ làm giảm áp lực động mạch phổi.
+Các nghiên cứu lớn tại Anh và Hoa Kỳ đều cho thấy dùng ôxy liệu pháp liều thấp (1 -2 lít/phút), kéo dài (12 - 24 giờ/ngày, trong vài tháng đến nhiều năm) làm cải thiện rõ tỷ lệ sống còn bệnh nhân tâm phế mạn. Đặc biệt dùng ôxy liệu pháp liên tục có thể làm giảm tỷ lệ tử vong rõ hơn dùng ôxy liệu pháp ngắt quãng vào ban đêm.
+ Ôxy liệu pháp cũng làm cải thiện chức năng tâm thần kinh của bệnh nhân tâm phế mãn và sự cải thiện này thường có được sau một tháng dùng ôxy.
+ Vì sao ôxy liệu pháp làm cải thiện tình trạng sống còn của bệnh nhân tâm phế mãn đến nay vẫn chưa được rõ. Có hai giả thiết chính:
(1) Ôxy làm giảm tình trạng co mạch phổi, giảm sức cản mạch máu phổi vì vậy chức năng thất phải được cải thiện và thể tích tống máu thất phải tăng;
(2) Ôxy liệu pháp làm cải thiện nồng độ ôxy máu động mạch nên cung cấp tốt ôxy cho các cơ quan sống còn như não, tim, gan, thận...
+ Liệu pháp ôxy kéo dài được khuyến cáo ở các bệnh nhân tâm phế mãn có PaO2 lúc nghỉ dưới 55mmHg và đã được điều trị ổn định trong 3 tuần với các thuốc như thuốc giãn phế quản, kháng sinh, lợi tiểu... Bệnh nhân có PaO2 lúc nghỉ lớn hơn 55mmHg thì cần phải xem xét cân nhắc khi dùng ôxy liệu pháp kéo dài và chỉ dùng khi bệnh nhân có đa hồng cầu hoặc có các dấu chứng tăng áp động mạch phổi rõ. Cần phải theo dõi trong 2 hoặc 3 tháng sau khi bắt đầu liệu pháp ôxy, khi PaO2 ổn định và tăng lên, có thể chấp nhận điều trị thuốc cho bệnh nhân mà không dùng ôxy nữa.
+ Ôxy liệu pháp kéo dài ban đêm có vai trò quan trọng ở các bệnh nhân có rối loạn bão hoà ôxy máu khi ngủ. Bệnh nhân giảm độ bão hoà ôxy khi gắng sức chỉ cần cung cấp bổ sung ôxy khi gắng sức và hiệu quả của liệu pháp ôxy kéo dài chưa được chứng minh trong trường hợp này.
+ Thuốc lợi tiểu loại ức chế men anhydrase carbonic như Diamox, hoặc lợi tiểu nhưAldacton tỏ ra có ích ở bệnh nhân tâm phế mãn, liều 10 mg/kg cân nặng cho từng đợt 3-4 ngày. Không nên dùng thuốc lợi tiểu khi pH máu < 7,30.
+ Thuốc trợ tim nhóm Digitalis: Tác dụng của các thuốc này lên chức năng thất phải rất phức tạp. Các thuốc Digitalis làm tăng khả năng co bóp của cơ tim phải nhưng đồng thời cũng làm tăng co thắt mạch máu phổi, làm giảm sự trở về của máu tĩnh mạch ngoại biên do làm tăng thể tích dự trữ của tĩnh mạch và vì vậy có thể ảnh hưởng đến cung lượng tim. a. Chỉ nên dùng trợ tim nhóm Digitalis ở bệnh nhân tâm phế mãn khi có suy tim trái đồng thời. Mathur và cộng sự theo dõi tác dụng của Digoxin liều 0,25 mg/ngày ở các bệnh nhân tâm phế mãn trong 8 tuần thì nhận thấy Digoxin không làm cải thiện phân số tống máu thất phải khi phân số tống máu thất trái bình thường; chỉ các bệnh nhân có phân số tống máu thất trái giảm từ đầu thì Digoxin có làm cải thiện phân số tống máu thất phải. Sử dụng thuốc trợ tim phải rất thận trọng, Digitalis có thể gây rối loạn nhịp tim, chỉ nên sử dụng khi suy tim còn bù trừ và liều nhẹ.
+ Không dùng khi suy tim mất bù. Thuốc lợi tiểu và Digitalis trong trường hợp này không quan trọng bằng các biện pháp cải thiện thông khí phế nang như ôxy liệu pháp. Mặc dù các thuốc trợ tim nhóm Digitalis không phải là thuốc điều trị thông thường của bệnh tâm phế mạn, nhưng một nghiên cứu đã cho thấy dùng Digoxin đường tĩnh mạch trong những đợt suy hô hấp cấp ở bệnh nhân tâm phế mãn có thể làm tăng sức căng của cơ hoành và tăng cung lượng tim.
+ Theophylline: đây là thuốc có tác dụng làm giãn phế quản được sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, Theophylline có tác dụng làm giảm khó thở chủ yếu ở những bệnh nhân bị bệnh đường thở tắc nghẽn. Aminophylline dùng đường tĩnh mạch có thể làm giảm nhanh áp lực động mạch phổi và làm tăng phân số tống máu của cả thất phải và thất trái. Uống Theophylline kéo dài ở bệnh nhân tâm phế mãn cũng có tác dụng tốt lên chức năng thất phải. Có nghiên cứu cho thấy bệnh nhân dùng Theophylline trong 4 tháng đã làm cải thiện rõ phân số tống máu thất phải. Phân số tống máu thất trái cũng tăng lên rõ. Các nghiên cứu in vivo cho thấy Theophylline và Aminophylline đều làm giảm hậu gánh (do làm giảm sức cản mạch máu phổi và mạch máu hệ thống) và làm tăng sức co cơ tim, vì vậy, một trị liệu Theophylline kéo dài có thể làm tăng rõ chức năng bơm máu của hai thất. Tuy nhiên, Theophylline không làm giảm hiện tượng co mạch máu phổi do thiếu ôxy tổ chức.
+ Các thuốc kích thích thụ thể b-adrenergic
Salbutamol, Terbutaline, Pirbuterol được sử dụng như thuốc làm giãn phế quản và có tác dụng tốt ở bệnh nhân tâm phế mãn do làm giãn mạch máu phổi (tuần hoàn phổi của người có các thụ thể b-adrenergic) hoặc trực tiếp làm tăng sự co bóp của cơ tim. Trong một số nghiên cứu ngắn hạn cho thấy terbutaline và pirbuterol đều làm giảm trở kháng mạch máu phổi, làm tăng cung lượng tim và tăng phân số tống máu thất phải và thất trái ở phần lớn bệnh nhân tâm phế mãn. Tuy nhiên, các tác dụng này không tồn tại kéo dài khi điều trị các thuốc này lâu dài (> 6 tháng), nhất là ở các bệnh nhân có dùng ôxy liệu pháp.
Rất khó khăn khi đánh giá tác dụng của các thuốc giãn mạch trong điều trị tâm phế mãn vì những thay đổi huyết động trong điều trị rất phức tạp. Mục đích của việc dùng các thuốc giãn mạch là làm giảm áp lực động mạch phổi đang tăng cao ở bệnh nhân tâm phế mãn. Giãn mạch làm giảm sức cản của mạch máu nhng bù lại là cung lượng tim tăng và cuối cùng là áp lực động mạch phổi không thay đổi.
Có thể giãn mạch là tác dụng có lợi (vì làm tăng sự vận chuyển ôxy) mặc dù tăng áp động mạch phổi không hạ bớt. Các thuốc làm giảm sự trở về của máu tĩnh mạch (nhóm Nitrate) hoặc các thuốc làm giảm chức năng thất phải (Nifedipine) có thể làm giảm bớt tăng áp động mạch phổi do làm giảm cung lợng tim. Các nghiên cứu theo dõi kéo dài cho thấy cần thiết phải đánh giá các đáp ứng về mặt huyết động khi dùng các thuốc giãn mạch và cần đánh giá tác dụng lên tỷ lệ sống còn của từng loại thuốc khác nhau.
b. Dùng các thuốc giãn mạch có thể có tác dụng phụ như hạ huyết áp và giảm độ bão hoà ôxy máu động mạch. Phần lớn các thuốc giãn mạch có tác dụng mạnh lên mạch máu hệ thống hơn là mạch máu phổi. Ở các bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi nhiều và cung lượng tim bên phải giảm thì co mạch hệ thống như là một cơ chế bảo vệ chính để duy trì huyết áp động mạch hệ thống. Ở các bệnh nhân này, giãn mạch máu hệ thống chọn lọc có thể làm giảm huyết áp và khởi đầu cho vòng xoắn bệnh lý của suy thất phải (do giảm lưu lượng mạch vành phải) và truỵ mạch. Các thuốc giãn mạch cũng có thể làm giảm ôxy máu động mạch do truơng lực mạch máu phổi bị phá vỡ làm mất cân bằng thông khí tưới máu của phổi.
c. Kết quả nghiên cứu điều trị tâm phế mãn với các thuốc giãn mạch này đều không có kết luận rõ ràng và không có một thuốc nào trong các thuốc trên được khuyến cáo sử dụng thường quy trong thực hành lâm sàng. Các nitrate có vẻ có tác dụng tốt nhưng thực chất đều không có vai trò rõ ràng vì làm giảm nồng độ ôxy máu động mạch và làm giảm cả chỉ số tim.
d. Điều trị tâm phế mãn với các thuốc giãn mạch cần phải xem xét và cân nhắc kỹ và chỉ dùng khi các điều trị thường quy và ôxy liệu pháp không làm cải thiện tình trạng suy tim phải và tăng áp động mạch phổi. Vì các thuốc này có nhiều tác dụng phụ nên hiệu quả của chúng về mặt huyết động và vận chuyển ôxy cần đợc đánh giá cẩn thận, thường sau 4 - 5 tháng điều trị và tốt nhất là đánh giá qua thông tim phải.
- Kháng sinh: Vai trò kháng sinh trong điều trị đợt bội nhiễm rất quan trọng. Thuốc kháng sinh nên dùng loại có phổ kháng khuẩn rộng, dùng kéo dài và liều luợng cao trong 2-3 tuần (tiêm, uống, khí dung). Nhiều tác giả chủ trương dùng kháng sinh ngoài đợt bội nhiễm để đề phòng nhất là cho uống kháng sinh vào những tháng mùa lạnh (mỗi đợt uống 10 ngày trong 3 tháng).
- Corticoid: Có hiệu quả trong điều trị đợt cấp: dùng Prednisolon uống, Hydrocortison khí dung, Depersolon hay Solu-Medron tiêm tĩnh mạch. Corticoid vừa có tác dụng chống viêm, chống dị ứng và làm giảm tiết dịch.
- Chích máu: Ít dùng, chỉ định khi hematocrit lớn hơn 65%. Lấy khoảng 300ml máu mỗi lần. Sau chích máu, áp lực động mạch phổi trung bình và sức cản mạch máu phổi thường giảm, cung lượng tim thay đổi không đáng kể, sự vận chuyển ôxy giảm nhiều và sự tiêu thụ ôxy lúc nghỉ có thể tăng nhẹ hoặc không thay đổi. Chích máu có tác dụng rõ rệt đối với khả năng gắng sức của bệnh nhân tâm phế mãn. Nhiều nghiên cứu cho thấy khả năng gắng sức, thời gian gắng sức và mức độ tiêu thụ ôxy tối đa đều tăng lên đáng kể sau khi chích máu ở các bệnh nhân tâm phế mãn có đa huyết cầu. Chích máu để làm giảm hematocrit còn khoảng 50% có tác dụng tốt về mặt huyết động trong thời gian ngắn, nhất là khi có gắng sức. Tuy nhiên, tác dụng lâu dài của việc chích máu lặp lại nhiều lần vẫn chưa được xác định.
- Chế dộ ăn uống và nghỉ ngơi: Những người bị bệnh phổi mạn tính khi đã xuất hiện khó thở thì nên để làm việc nhẹ, không phải gắng sức. Khi đã có dấu hiệu suy tim phải thì phải nghỉ việc hoàn toàn. Ăn ít muối.
- Không dùng các thuốc sau: Morphin, gardenal và các thuốc an thần khác không được dùng cho các bệnh nhân tâm phế mãn vì sẽ gây suy trung tâm hô hấp.
- Tập thở: Rất quan trọng, làm tăng độ giãn nở của phồi và lồng ngực, tăng thông khí phế nang, nhất là tập thở bằng cơ hoành.
- Loại bỏ các yếu tố kích thích: Thuốc lào, thuốc lá...
+Tâm phế mạn ở bệnh nhân hen phế quản: cho Hemisucinat Hydrocortison, Depersolon tiêm tĩnh mạch.
+ Bệnh nhân xơ phổi thường không có ứ trệ CO2, nên chỉ cần cho thở ôxy rộng răi và cho corticoid.
+ Người béo bệu: cho ăn chế độ làm giảm cân.
+ Người gù vẹo cột sống dị dạng lồng ngực: tập thở, chống bội nhiễm phổi là rất quan trọng, có thể cho điều trị chỉnh hình từ sớm.
+Do tắc mạch phổi: nghỉ ngơi tuyệt đối, ăn chế độ không muối, dùng thuốc chống đông, trợ tim digitalis, thở ôxy. Phẫu thuật để lấy cục máu đông tắc ở động mạch phổi lớn.
*******************************